15:48 20/09/2018 GMT+7
Hợp đồng vay tài sản (Vay tiền mặt)

Câu hỏi:

 
Đầu năm 2018, Anh trai tôi đã vay của một người với số tiền là 100.000.000 đồng, tiền lãi Anh phải trả là 10.000.000đ/1 tháng (không được ghi trong giấy vay tiền). Do không thể tiếp tục chi trả, Anh tôi đã bỏ trốn khỏi địa phương. Nhóm người cho vay thường xuyên đến công ty và nơi ở của gia đình chúng tôi và ép chúng tôi (anh, em ruột và vợ, con) phải trả nợ. Anh tôi có ký giấy vay tiền nhưng không ghi rõ nội dung về lãi suất phải trả và không có điểm chỉ vân tay. Xin hỏi, trong trường hợp này, chúng tôi phải xử lý như thế nào? Việc cho vay nói trên có đúng quy định của pháp luật không?


Người gửi: Hoàng Mạnh Hùng, Ba Vì, Hà Nội

Trả lời:

Về Câu hỏi của bạn Luật gia xin được trả lời như sau:

 

Thứ nhất, về việc vay tiền: Theo Điều 463 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 thì Hợp đồng vay tài sản được quy định như sau:

 Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Hiện nay, pháp luật  không quy định hình thức của hợp đồng vay tiền bắt buộc phải lập thành văn bản nên các bên có thể giao kết, thỏa thuận về việc vay thông qua các hình thức như: lời nói, văn bản,.... Nếu có tranh chấp về hợp đồng vay mà phải khởi kiện tại tòa án thì các bên cần cung cấp chứng cứ để chứng minh về việc vay tiền hoặc trả tiền.

Điều 468 BLDS năm 2015 quy định về Lãi suất cụ thể như sau:

“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”

Như vậy, mức lãi suất tối đa đối với hợp đồng vay là 20% giá trị khoản vay/năm tương ứng với 1,67% giá trị khoản vay/tháng. Nếu không có quy định mức lãi suất đối với tiền lãi chậm trả thì lãi suất tối đa cho phần tiền lãi là: 10% tiền lãi trên nợ gốc tương ứng với 0,83%/tháng.

Nghĩa vụ thanh toán của bên cho vay bao gồm:

(1). Nợ gốc;

(2). Lãi trên nợ gốc trong thời hạn hợp đồng vay = Nợ gốc x lãi suất vay trong hợp đồng x thời hạn hợp đồng vay;

(3). Lãi phát sinh đối với phần tiền lãi trên nợ gốc = Lãi trên nợ gốc x 0,83% x thời gian chậm trả;

(4). Lãi trên nợ gốc quá hạn = Nợ gốc x 1,5 x lãi suất vay trong hợp đồng x thời gian quá hạn.

Như vậy, đối với trường hợp của Anh bạn, nếu có thông tin về thời hạn cho vay bạn hoàn toàn có thể tính được khoản tiền mà Anh bạn phải trả theo quy định của pháp luật đã nêu ở trên.

Thứ hai, về xử lý đối với hành vi cho vay nặng lãi: Điều 201 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, cụ thể như sau:

“1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

Theo đó, hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Đó là hành vi cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất được quy định trong BLDS năm 2015. Hành vi này bị coi là tội phạm nếu thỏa mãn 1 trong các dấu hiệu sau:

- Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Như vậy, đối với trường hợp của Anh bạn, theo quy định của BLDS năm 2015 thì Mức lãi suất tối đa trong hợp đồng vay nói trên là 20% giá trị khoản vay/năm tương ứng với 1,67% giá trị khoản vay/tháng, tức không quá 1.670.000đ/tháng. Tuy nhiên, trong trường hợp này Anh  bạn lại phải trả 10.000.000đ/tháng cao hơn gấp gần 6 lần so với mức lãi suất cao nhất được quy định trong BLDS năm 2015 nói trên. Nếu người cho vay đã nhận 3 lần (cho 3 tháng) tiền lãi trở lên và có giấy biên nhận tiền hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 201 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Luật gia xin thông tin đến bạn để tham khảo.

Luật gia Đàm Thanh Tuấn

thanhtuanvla@gmail.com

Giá vàng
LoạiMua Bán
USD
EUR
AUD