16:33 10/06/2016 GMT+7
Hội Luật gia Việt Nam 60 năm xây dựng và phát triển (04/4/ 1955 - 04/4/ 2015)
Hội Luật gia Việt Nam được thành lập ngày 04 tháng 4 năm 1955 (theo Nghị định số 130/NV/DC/NĐ ngày 04/4/1955 của Bộ Nội vụ).

Trong 60 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của Nhà nước, các thế hệ luật gia Việt Nam đã không ngừng phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành cùng với sự phát triển đi lên của đất nước và dân tộc Việt Nam. Với phương châm Đoàn kết, Dân chủ, Sáng tạo, Phát triển, các cấp hội và hội viên Hội Luật gia Việt Nam đã tham gia tích cực, nhiệt tình, tâm huyết vào các hoạt động của Hội, đóng góp nhiều công sức, trí tuệ hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, xây dựng Hội Luật gia Việt Nam ngày càng vững mạnh, trở thành một tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.

 

Nhìn lại chặng đường 60 năm xây dựng và phát triển của Hội Luật gia Việt Nam, các cấp hội và hội viên Hội Luật gia Việt Nam hôm nay tự hào về lịch sử hình thành, xây dựng, phát triển của Hội, tự hào về truyền thống tốt đẹp của Hội với những mốc son lịch sử, những thành tích và đóng góp xứng đáng của các thế hệ luật gia cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, tự hào về sự ghi nhận và niềm tin của Đảng, Nhà nước, xã hội đãdành cho Hội và phấn đấu để giữ trọn niềm tự hào đó cho các thế hệ luật gia mai sau, tiếp tục tô thắm truyền thống của Hội Luật gia Việt Nam.

I.  BỐI CẢNH THÀNH LẬP HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM

Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, trong cuộc đấu tranh chống ách thống trị của thực dân Pháp, các luật gia yêu nước, trong đó có Luật sư Phan Văn Trường, Luật sư Nguyễn An Ninh đã tích cực đấu tranh công khai trên mặt trận pháp lý bằng vũ khí pháp luật quốc tế và pháp luật của chính nước Pháp để chống lại chủ nghĩa thực dân Pháp, đòi quyền dân chủ cho Nhân dân Việt Nam. Kế thừa truyền thống yêu nước của Nhân dân ta, các luật gia Việt Nam như Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Phan Anh, Phạm Văn Bạch, Trần Công Tường, Nguyễn Văn Hưởng, Vũ Trọng Khánh... đã đấu tranh mạnh mẽ trên mặt trận pháp lý để bảo vệ công lý, bảo vệ các chí sĩ cách mạng Việt Nam.

 

Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh, mở đầu một thời đại lịch sử mới của dân tộc Việt Nam, thời đại Nhân dân Việt Nam làm chủ đất nước của mình, thời đại Hồ Chí Minh. Nhà nước mới đòi hỏi phải có một bộ máy nhà nước mới và phải xây dựng một hệ thống pháp luật mới để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội và bảo vệ thành quả của cách mạng, phát triển kinh tế, dựng xây đất nước. Yêu cầu đó đòi hỏi phải có một đội ngũ luật gia phục vụ Cách mạng, phục vụ đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh các nhà hoạt động chính trị được phân công nhiệm vụ xây dựng chính quyền mới, một số luật gia, sinh viên Trường Đại học Luật Đông Dương và một số luật gia được đào tạo tại các Trường đại học Pháp cũng tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng chính quyền mới. Ngay trong những năm đầu dựng nước (1945 - 1946), đội ngũ luật gia Việt Nam yêu nước đã hình thành trong bộ máy chính quyền mới từ Trung ương đến cơ sở.

 

Khi Thực dân Pháp quay lại xâm lược Việt Nam, tháng 12 năm 1946 hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều luật gia Việt Nam không quản ngại hy sinh, gian khổ đã hăng hái dấn thân vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống Thực dân Pháp để giành độc lập. Một số luật gia tiêu biểu có vinh dự được Hồ Chủ tịch giao những trọng trách trong Chính phủ như các luật sư Phan Anh, Vũ Trọng Khánh, Nguyễn Văn Hưởng, Trần Công Tường, các luật gia Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hoè. Được tôi luyện trong cuộc kháng chiến, đội ngũ luật gia cách mạng từng bước trưởng thành.

 

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại (7/5/1954), thực dân Pháp đã phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ công nhận nền độc lập và thống nhất của Việt Nam. Tuy nhiên hai miền Bắc, Nam của Tổ quốc vẫn tạm thời bị chia cắt. Đế quốc Mỹ đã không ngừng tiếp tay cho ngụy quyền miền Nam phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ. Nhiệm vụ tham gia cùng nhân dân cả nước đấu tranh để thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ đã có sức lôi cuốn mạnh mẽ các luật gia yêu nước.

 

Nhận thấy vai trò quan trọng của luật gia trong cuộc đấu tranh bảo vệ Hiệp định Giơ-ne-vơ, bảo vệ hoà bình thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước đã động viên giới luật gia tập hợp vào một tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng để đóng góp sức lực, trí tuệ phục vụ cách mạng.

 

Được sự động viên, khuyến khích của Đảng và Nhà nước, ngày 29/3/1955 khoảng 40 luật gia ở các ngành khác nhau tham gia Hội nghị thành lập Hội Luật gia Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Điều lệ Hội và bầu Luật sư Phan Anh làm Chủ tịch Hội. Ngay sau đó, ngày 4/4/1955 Chính phủ đã công nhận việc thành lập Hội và Điều lệ của Hội bằng Nghị định số 130/NĐ-NV. Ngày 4/4/1955 đã đi vào lịch sử vẻ vang của Hội, là ngày thành lập và ngày truyền thống của Hội Luật gia Việt Nam.  

 

II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM

Từ ngày thành lập đến nay, Hội đã trải qua 12 kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc. Tại nhiều kỳ Đại hội, Điều lệ Hội được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và tính chất, đặc điểm của Hội. Trong mỗi giai đoạn, tuy phương thức tổ chức và hoạt động Hội có những điểm khác nhau nhưng vẫn bảo đảm mục tiêu, tôn chỉ của Hội.

 

Chặng đường 60 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành của Hội trải qua 3 giai đoạn lớn:

- Giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1980: Giai đoạn hình thành tổ chức, xây dựng Điều lệ Hội, khẳng định tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội, từng bước xây dựng tổ chức, phát triển hội viên, mở rộng các hoạt động của Hội, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh pháp lý bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

 

- Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 2004: Giai đoạn củng cố và phát triển tổ chức, xây dựng Hội Luật gia Việt Nam thực sự là một tổ chức nghề nghiệp mang tính chính trị, xã hội sâu sắc của những người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật; mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội, tham gia tích cực vào quá trình đổi mới tư duy pháp lý, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

 

- Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2015: Giai đoạn đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, xây dựng Hội Luật gia Việt Nam trở thành tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp; hướng về cơ sở, tiếp tục củng cố, phát triển tổ chức, mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội, tham gia tích cực vào các quá trình thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; cải cách tư pháp, cải cách hành chính; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, xây dựng kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

1. Giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1980

1.1. Tình hình, đặc điểm chung

Từ tháng 7 năm 1954 đến năm 1959 phong trào cách mạng XHCN ngày càng lớn mạnh trên thế giới, đế quốc Mỹ tăng cường phá hoại việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, phá hoại sự nghiệp hòa bình thống nhất đất nước. Đế quốc Mỹ lấn dần, rồi nhảy vào thay thực dân Pháp thống trị miền Nam Việt Nam, dựng lên chính quyền tay sai nhằm ngăn cản cuộc Tổng tuyển cử của hai miền Bắc và Nam. Nhận rõ mưu đồ của đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn, nhân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự ủng hộ của hậu phương miền Bắc, đã dấy lên phong trào đấu tranh chính trị sôi nổi và rộng lớn, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống bầu cử “Quốc hội” bù nhìn, đòi cải thiện dân sinh, tự do dân chủ. Cuộc đấu tranh chống khủng bố, chống “tố cộng diệt cộng”, chống cướp đất, đuổi nhà diễn ra quyết liệt khắp ở miền Nam.

 

Từ đầu năm 1959, phong trào yêu nước, chống Mỹ của nhân dân miền Nam phát triển mạnh mẽ. Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMN Việt Nam) được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của MTDTGPMN Việt Nam, cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam liên tục phát triển, vùng giải phóng ngày càng được mở rộng, chính quyền nhân dân cách mạng được xây dựng.

 

Trước nguy cơ thất bại của cuộc “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ đưa lực lượng vũ trang vào tiến hành “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, đồng thời phát động cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.  

 

Sau những thắng lợi có ý nghĩa quyết định của cả hai miền trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, pháp lý, ngày 27/01/1973 tại Pari, Chính phủ Mỹ buộc phải ký “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.  

 

Ngày 30/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thắng lợi, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Tổ quốc được thống nhất. Ngày 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội Việt Nam khóa VI thành công rực rỡ. Tại kỳ họp đầu tiên vào tháng 6/1976, Quốc hội Việt Nam thống nhất đã long trọng tuyên bố hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước và quyết định lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.  

 

Trong những năm 1976-1980, đất nước thống nhất nhưng hệ thống pháp luật của nước ta còn nhiều hạn chế, bất cập, không đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội trong giai đoạn mới. Tình hình đó đòi hỏi phải khẩn trương rà soát, lựa chọn các văn bản quy phạm pháp luật còn phù hợp để tạm thời áp dụng chung cho cả nước, đồng thời phải khẩn trương chuẩn bị xây dựng Hiến pháp mới, hiến pháp của thời kỳ quá độ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo cơ sở cho việc xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và khả thi để áp dụng thống nhất trong cả nước. Đó là nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn, phức tạp, nhưng cũng là cơ hội để Hội Luật gia Việt Nam thể hiện vai trò, tập hợp và phát huy khả năng của các luật gia vào các hoạt động mang nhiều ý nghĩa đó.

 

1.2. Các kỳ Đại hội và phương hướng hoạt động chủ yếu

Trong giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1980, Hội đã tổ chức 6 đại hội, từ Đại hội I đến Đại hội VI.

- Đại hội I (Hội nghị thành lập): Ngày 29/3/1955, tại tầng 1 trụ sở Công ty đường sắt Vân Nam (thuộc Pháp trước đây), ngày nay là trụ sở Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, 40 luật gia hoạt động trong các ngành khác nhau đã đứng ra tổ chức Hội nghị thành lập Hội luật gia Việt Nam.

Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 24 ủy viên, trong đó Luật sư Phan Anh được bầu làm Chủ tịch Hội; 4 Phó chủ tịch Hội gồm: Luật gia Vũ Đình Hòe, Luật sư Phạm Văn Bạch, Thẩm phán Vũ Huy Mẫn và Luật gia Nguyễn Mạnh Tường; Tổng thư ký là Luật sư Trần Công Tường.

Đại hội đã thông qua Điều lệ Hội, trong đó có quy định một số vấn đề quan trọng:

- Mục đích của Hội: Đoàn kết các luật gia Việt Nam để góp phần vào công cuộc xây dựng nền pháp lý Việt Nam và cùng toàn dân đấu tranh ủng hộ hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc; cùng các luật gia nước ngoài bảo vệ những nguyên tắc pháp lý quốc tế căn bản nhằm thực hiện các quyền lợi dân tộc, xây dựng một đời sống hòa bình, hạnh phúc, hợp tác, bình đẳng giữa các dân tộc.

- Hội viên Hội Luật gia Việt Nam: Những người thực hành, giảng dạy hay nghiên cứu pháp lý, tán thành Điều lệ, có đơn xin gia nhập Hội và được Ban Chấp hành đồng ý thì trở thành hội viên.  

Hội viên có các quyền và nghĩa vụ: tham gia các công tác nghiên cứu do Hội tổ chức; đảm nhiệm các công tác do Hội giao cho; góp ý kiểm tra, xây dựng và phê bình công tác của Hội; bầu cử tại Đại hội đồng và ứng cử Ban Chấp hành; đóng tiền niên liễm.

- Bộ máy tổ chức của Hội gồm có: Đại hội đồng; Ban Chấp hành; Thư ký vụ (gồm 1 Tổng thư ký và 4 Thư ký) và các tiểu ban, do Thư ký vụ phụ trách.

Phương hướng hoạt động chủ yếu của Hội trong thời kỳ này được xác định là hướng tới mục đích đã được xác định trong Điều lệ.

- Đại hội lần thứ II được tổ chức ngày 26/3/1957. Đến thời điểm Đại hội II, số hội viên của Hội là 270 người. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 29 ủy viên, trong đó: Luật sư Phan Anh được bầu lại làm Chủ tịch Hội; Luật gia Vũ Đình Hòe, Luật sư Phạm Văn Bạch, Thẩm phán Vũ Huy Mẫn và ông Nguyễn Mạnh Tường được bầu lại làm Phó chủ tịch; Luật sư Trần Công Tường được bầu lại làm Tổng thư ký.

- Đại hội lần thứ III được tổ chức ngày 26/3/1960. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 24 ủy viên, trong đó: Luật sư Phan Anh được bầu lại làm Chủ tịch Hội; các vị gồm Luật gia Vũ Đình Hòe, Luật sư Phạm Văn Bạch, Thẩm phán Vũ Huy Mẫn, ông Nguyễn Mạnh Tường tiếp tục được bầu lại làm Phó Chủ tịch và Luật sư Trần Công Tường được bầu lại làm Tổng thư ký.

- Đại hội lần thứ IV được tổ chức ngày 11/3/1962. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 37 ủy viên, trong đó: Luật sư Phan Anh được bầu lại làm Chủ tịch Hội; các vị gồm Luật gia Vũ Đình Hòe, Luật sư Phạm Văn Bạch, Thẩm phán Vũ Huy Mẫn, ông Nguyễn Mạnh Tường được bầu lại làm Phó Chủ tịch; Luật sư Trần Công Tường được bầu lại làm Tổng thư ký.

- Đại hội lần thứ V được tiến hành vào ngày 01/7/1974. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 17 ủy viên, trong đó: Luật sư Phan Anh được bầu lại làm Chủ tịch Hội; các ông Hoàng Quốc Việt, Luật gia Vũ Đình Hòe, Luật sư Phạm Văn Bạch được bầu làm Phó Chủ tịch và ông Nguyễn Văn Chi được bầu làm Tổng thư ký.

Đại hội V cũng đã xác định, Hội cần thực hiện các nhiệm vụ nhằm hướng tới mục tiêu mới là “cùng toàn dân thực hiện những nhiệm vụ mà công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc yêu cầu, chủ yếu là trên lĩnh vực pháp lý, góp phần tích cực vào việc tăng cường pháp chế XHCN, vào việc nâng cao ý thức tôn trọng vào bảo vệ pháp luật trong cán bộ và nhân dân, vào việc xây dựng nền pháp lý Việt Nam”.

- Đại hội lần thứ VI được tổ chức vào ngày 11 và 12/4/1980 tại Hà Nội, là sự kiện quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của Hội. Tính đến thời điểm Đại hội VI.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 40 ủy viên. Tại kỳ họp lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Hội đã bầu Ban thường vụ với 10 ủy viên, trong đó: Luật sư Phan Anh được bầu lại làm Chủ tịch Hội, Luật sư Phạm Văn Bạch được bầu lại làm Phó Chủ tịch, ông Nguyễn Trường Châu được bầu làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký.

 

Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Đại hội VI đã thông qua Điều lệ sửa đổi, trong đó xác định: Hội Luật gia Việt Nam là đoàn thể của những người Việt Nam làm công tác pháp luật; là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của Hội Luật gia Dân chủ quốc tế. Hội có chức năng đoàn kết, tổ chức, động viên những người làm công tác pháp luật ở mọi ngành hoạt động, tham gia tích cực vào việc củng cố, tăng cường pháp chế XHCN, phục vụ cho công cuộc xây dựng CNXH, cùng luật gia và nhân dân tiến bộ trên thế giới đấu tranh cho những nguyên tắc pháp lý quốc tế tiến bộ vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Điều lệ cũng đã có những quy định mới về hội viên, về tổ chức bộ máy của Trung ương Hội và các cấp hội địa phương.

 

Với mục tiêu góp phần thực hiện đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng trong lĩnh vực pháp lý, nhiệm vụ của Hội cũng được xác định cụ thể, bao gồm: (1) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong nhân dân; (2)Tổ chức bồi dưỡng về khoa học pháp lý, chế độ chính sách pháp luật cho cán bộ và hội viên, giới thiệu các tư liệu pháp lý; (3) Tổ chức các cuộc thảo luận các dự án pháp luật theo yêu cầu của Nhà nước; (4) Kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền về những vấn đề pháp luật; (5) Xuất bản sách báo pháp lý; (6) Tham gia các hoạt động chính trị pháp lý theo yêu cầu của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc; (7) Hợp tác trên lĩnh vực pháp lý với các tổ chức luật gia các nước XHCN anh em, các nước Lào, Campuchia và các nước khác, trao đổi phái đoàn với các nước đó, tham gia các hoạt động quốc tế, nhằm tranh thủ sự đồng tình của các nước đối với đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta và thực hiện nhiệm vụ quốc tế của Hội.

 

1.3. Những thành tựu chủ yếu trên các mặt hoạt động

1.3.1. Tham gia đấu tranh trên mặt trận pháp lý phục vụ sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong giai đoạn 1955-1980, Hội Luật gia Việt Nam đã tham gia rất tích cực vào cuộc đấu tranh trên mặt trận pháp lý phục vụ sự nghiệp giải phóng hoàn toàn đất nước, thống nhất Tổ quốc và đã đạt được những thành tựu quan trọng.

- Ngay từ khi mới thành lập, Hội đã triển khai các hoạt động đấu tranh pháp lý đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Nhiều luật gia trong đó có Luật sư Phan Anh bằng nhiều hình thức khác nhau đã tiến hành các hoạt động nhằm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Hiệp định Giơ-ne-vơ, giải thích một cách đúng đắn tinh thần và nội dung của Hiệp định, chống sự xuyên tạc của bọn thực dân và ngụy quyền tay sai và đấu tranh đòi thi hành Hiệp định, vạch trần những thủ đoạn xảo quyệt của Đế quốc Mỹ nhằm phá hoại Hiệp định. Khi Mỹ Ngụy phá hoại cuộc Tổng tuyển cử theo Hiệp định giơ-ne-vơ đã được thỏa thuận tổ chức vào năm 1956, cùng với nhân dân cả nước Hội đã kịch liệt lên án những hành vi đó của Mỹ ngụy trên các diễn đàn pháp lý quốc tế, đặc biệt trong những hội nghị quốc tế do Hội Luật gia dân chủ quốc tế và nhiều tổ chức trên thế giới tổ chức để ủng hộ lập trường chính nghĩa của nhân dân ta. Những quan điểm, ý kiến đề xuất của Hội đã có một tiếng vang lớn trên thế giới, nhiều nhà hoạt động chính trị của nhiều nước đã tỏ rõ thái độ đồng tình, ủng hộ lập trường của nhân dân Việt Nam.

 

- Trong những năm Mỹ can thiệp sâu vào Việt Nam, đưa lực lượng vũ trang vào miền Nam, tiến hành đồng thời cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, leo thang chiến tranh và gây ra vô vàn tội ác đối với nhân dân Việt Nam thì cuộc đấu tranh trên mặt trận pháp lý ngày càng quyết liệt. Các luật gia Việt Nam đã đưa ra lập luận, những bằng chứng, tư liệu có giá trị pháp lý quan trọng để giúp nhân dân các nước hiểu rõ tình hình ở Việt Nam và phản bác các luận điệu phi pháp lý của Mỹ, làm rõ hai vấn đề là: (1) Cuộc chiến tranh của Mỹ chống Nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh xâm lược; Mỹ là kẻ xâm lược, phạm tội xâm lược; (2) Là nạn nhân của sự xâm lược, Nhân dân Việt Nam có quyền đứng lên chống xâm lược để tự vệ, bảo vệ những quyền dân tộc căn bản, những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mình.

 

- Năm 1968 các luật gia Việt Nam đã viết cuốn sách “Những tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam” bằng tiếng Anh và tiếng Pháp gồm 3 phần: Phần I là bản cáo trạng về các tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam với tất cả những sự kiện, những bằng chứng, nhân chứng, những văn kiện; Phần II nói về những tội ác chống loài người mà Mỹ đã phạm ở Việt Nam, trong đó bao gồm cả những tội ác về dùng chất độc hoá học ở miền Nam Việt Nam và những tội ác chiến tranh theo nghĩa hẹp của Mỹ ở Việt Nam; Phần III nói về Quyết định của Toà án quốc tế Xờ-tốc-khôm năm 1967, quan điểm của các luật gia dân chủ về tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam để phổ biến ra nước ngoài. Cuốn sách này được đánh giá “thực sự là một công trình khoa học về hình sự quốc tế”.

 

Kết quả của cuộc đấu tranh bền bỉ đó là dư luận trong giới luật gia tiến bộ nói riêng, nhân dân Mỹ và nhân dân các quốc gia trên thế giới nói chung ngày càng nhận thấy rõ tính hợp pháp, chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân Việt Nam và có tác dụng thúc đẩy phong trào chống chiến tranh xâm lược trên thế giới, nhất là ở Mỹ.

 

- Khi Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được ký ngày 27/1/1973, trước yêu cầu và ý nghĩa của việc giải thích Hiệp định, các luật gia Việt Nam đã sử dụng những kiến thức, quan điểm đúng đắn, khoa học để viết một tác phẩm bằng 3 thứ tiếng (Việt, Anh, Pháp) làm công cụ để đấu tranh đòi thi hành đúng đắn Hiệp định và phổ biến cho toàn thế giới hiểu rõ nội dung của Hiệp định Pa-ri. Ngoài cuốn sách này, các luật gia Việt Nam còn viết nhiều bài đăng trên báo chí, nói trên đài tố cáo và lên án những thủ đoạn của Mỹ phá hoại Hiệp định Pa-ri. Các luật gia Việt Nam đã phân tích kỹ vấn đề trách nhiệm của quốc gia tiến hành chiến tranh xâm lược. Với những sự kiện đanh thép và các lý lẽ pháp lý đúng đắn, vững chắc, các luật gia Việt Nam đã đi đến khẳng định: Mỹ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại đã gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Quan điểm của các luật gia Việt Nam đã nhận được sự đồng tình của nhiều luật gia Mỹ[1] và dư luận quốc tế.

 

1.3.2. Đóng góp cho sự phát triển của pháp luật quốc tế và luật nhân đạo quốc tế

Hội Luật gia Việt Nam đã tham gia tích cực vào các hoạt động pháp lý quốc tế và có những đóng góp quan trọng cho việc phát triển và bảo vệ các giá trị của pháp luật quốc tế và luật nhân đạo quốc tế.

- Dưới góc độ khoa học pháp lý, từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, các luật gia Việt Nam đã nêu những quan điểm và có những ý kiến góp phần quan trọng vào việc làm rõ một số nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế, đặc biệt là nguyên tắc về các quyền cơ bản của dân tộc, đó là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Những thuật ngữ này đã được nhiều hội nghị quốc tế của giới luật gia thừa nhận. Tại Đại hội Hội luật gia dân chủ quốc tế lần thứ X tháng 4/1975, các luật gia Việt Nam đã lập luận và thuyết phục Đại hội chấp nhận và đưa vào Nghị quyết của Đại hội 8 nguyên tắc được rút ra từ thực tiễn đấu tranh để bảo vệ các quyền dân tộc cơ bản của Nhân dân ta, trong đó có nguyên tắc: “Mọi dân tộc có quyền bảo vệ các quyền dân tộc cơ bản và quyền dân tộc tự quyết của mình bằng mọi biện pháp đấu tranh, kể cả việc sử dụng bạo lực...”.

 

- Trong cuộc đấu tranh pháp lý, các luật gia Việt Nam cũng đã tố cáo một cách toàn diện và liên tục, cung cấp các tài liệu, chứng cứ cụ thể để chứng minh các tội ác chưa từng có trong lịch sử và được các luật gia tiến bộ trên thế giới thừa nhận về các tội danh mới trong hình sự quốc tế: Tội ác xâm lược thực dân mới; tội ác diệt chủng; tội ác diệt sinh thái; tội ác diệt xã hội và tội ác phi nhân hoá.

 

- Cũng trong giai đoạn này với bản lĩnh của mình, các luật gia Việt Nam cũng thuyết phục được các luật gia tiến bộ về việc cần phải sửa đổi khái niệm chiến sĩ du kích trong các Công ước Giơ-ne-vơ năm 1949. Tại các hội nghị pháp luật nhân đạo quốc tế họp tại Giơ-ne-vơ các năm 1974, 1975, 1976, 1977, các luật gia Việt Nam đã đưa ra những ví dụ cụ thể chứng minh sự lạc hậu của 4 Công ước Giơ-ne-vơ năm 1949 và đề nghị sửa đổi căn bản điều kiện về chiến sĩ du kích. Đề nghị của Việt Nam nhận được nhiều sự ủng hộ. Nghị định thư số I được thông qua ngày 10/6/1977, tại Đoạn 3 Điều 44 đã quy định rất mới về quy chế người du kích.

 

- Các luật gia Việt Nam cũng đã đưa ra những cơ sở vững chắc, những tiêu chuẩn của một chủ thể luật pháp quốc tế, đó là: Ý chí của nhân dân; Quyền kiểm soát thực tế lãnh thổ, hiệu lực thực tế đối với nhân dân. Quan điểm này ngày càng được các luật gia tiến bộ trên thế giới ủng hộ. Do đó từng bước Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được chính phủ, các tổ chức quốc tế công nhận ngày càng nhiều và được kết nạp vào làm thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, được nhiều nước, tổ chức quốc tế đặt quan hệ - nghĩa là được thừa nhận là một chủ thể của luật pháp quốc tế[2] . Việc thừa nhận này là một bước phát triển quan trọng về tiêu chí xác định chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế.

 

Sự đóng góp của Hội đối với sự phát triển luật pháp quốc tế đã được các luật gia trên thế giới thừa nhận và đánh giá cao. Luật sư Joe Noocman - Chủ tịch Hội Luật gia dân chủ quốc tế, trong chuyến thăm Việt Nam tháng 6 năm 1978 đã phát biểu “...cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là khởi nguồn cho những quy định pháp luật quốc tế và các luật gia Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng vào việc bảo vệ các quyền cơ bản của các dân tộc, điều mà Hội Luật gia dân chủ quốc tế có thể lấy làm tự hào ...”[3] , “...các đại biểu Việt Nam trong các hội nghị do Hội Luật gia dân chủ quốc tế tổ chức và trong các cuộc họp thường lệ của Hội, đã có cống hiến vào sự nghiệp quý giá là bảo vệ các quyền dân tộc cơ bản, sự nghiệp mà chúng tôi rất tự hào. Tôi có thể khẳng định rằng con đường mà Hội Luật gia dân chủ quốc tế đang đi trong lĩnh vực này là do các bạn vạch ra”[4].

 

1.3.3. Tham gia đấu tranh chống sự phá hoại của thế lực phản động

Từ năm 1975, Hội Luật gia Việt Nam đã cùng với toàn dân đấu tranh, kịp thời vạch trần thái độ thù địch của các thế lực phản động với nhân dân ta, lên án toàn bộ chiến lược phản động theo chủ nghĩa bành trướng, bá quyền của họ, chống lại âm mưu hạ uy tín quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là trong vấn đề nhân đạo, nhân quyền, góp phần làm cho nhân dân thế giới thấy rõ chính sách đối nội và đối ngoại đúng đắn của Nhà nước ta trong vấn đề Cam-pu-chia, vấn đề biên giới Việt- Trung.

 

Tháng 12/1979 Hội Luật gia Việt Nam đã được Chính phủ giao tiếp đón Đoàn điều tra của Tổ chức ân xá quốc tế vào Việt Nam để xem xét tại chỗ vấn đề cải tạo những người thuộc Ngụy quân, Ngụy quyền Sài Gòn cũ. Thông qua các cuộc đi thăm một số trại cải tạo tại miền Bắc và miền Nam, các cuộc thảo luận giữa Hội và Đoàn, các cuộc tiếp xúc tại Luân-đôn tháng 9/1980 và trao đổi thư từ sau đó đã làm sáng tỏ chính sách đúng đắn của Việt Nam trong vấn đề cải tạo những người thuộc Ngụy quân, Ngụy quyền Sài Gòn cũ.

 

 1.3.4. Hợp tác chặt chẽ với tổ chức luật gia của một số các nước

Hội đã ký kết thoả thuận hợp tác với Hội Luật gia dân chủ Liên Xô. Trong quan hệ với luật gia Cam-pu-chia, tháng 8 năm 1979 Hội đã tích cực tham gia giúp Cam-pu-chia tổ chức Toà án nhân dân cách mạng tại Pờ-nông-pênh để xét xử tội ác diệt chủng Pôn-pốt với sự tham dự của nhiều luật gia tiêu biểu của các nước. Các đại biểu của Hội cũng đã tham gia phiên toà này với tư cách là quan sát viên.

 

1.4. Xây dựng tổ chức Hội và phát triển hội viên[5]

Mục đích hoạt động của Hội thời kỳ 1955-1980 chủ yếu là nghiên cứu các vấn đề pháp lý và đấu tranh trên mặt trận pháp lý, phục vụ sự nghiệp độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Nhằm mục đích đó, theo Điều lệ năm 1955, tổ chức Hội gồm: Đại hội đồng, Ban Chấp hành, Thư ký vụ, Văn phòng, Tiểu ban nghiên cứu và Tiểu ban liên lạc quốc tế.

Các hoạt động của Hội trong hai năm đầu thành lập Hội chủ yếu tập trung ở Trung ương, do bộ máy của Trung ương Hội đảm nhiệm, chưa mở rộng ra các ngành, các địa phương.

Đại hội II (1957) bước đầu mở rộng tổ chức ra các địa phương. Điều lệ của Hội được sửa đổi như sau: “Tùy điều kiện và yêu cầu, có thể thành lập Chi nhánh Hội ở địa phương”.

Đại hội V (1974) tiếp tục mở rộng tổ chức Hội ra các ngành: “Tổ chức Hội gồm có Đại hội, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Ban Thư ký, các Ban chuyên trách, các Chi hội và Tổ hội viên”; “Tùy theo yêu cầu và điều kiện có thể thành lập Chi hội hoặc Tổ hội viên ở địa phương và ở các ngành”.

Trong thời kỳ 1955-1974, do chưa mở rộng tổ chức, phát triển hội viên, nên đến năm 1974, tổ chức của Hội mới phát triển ra một số ít địa phương, trong đó có Thành phố Hà Nội và Hải Phòng.

 

Đại hội V (1974), có gần 300 đại biểu tham dự, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng về phát triển tổ chức, kết nạp hội viên. Đại hội đề ra chủ trương: “Để hoạt động trong nước phát triển tốt, Hội cần phải phát triển hội viên, tổ chức các cơ quan của Hội ở địa phương, tăng cường mối liên hệ giữa Ban Chấp hành Trung ương và các hội viên”.

 

Đại hội VI đã thông qua Điều lệ (sửa đổi), bổ sung nhiều nội dung quan trọng về tổ chức Hội và hội viên. Số lượng Ban Chấp hành đã tăng lên 40 ủy viên và Ban Thường vụ là ủy viên. Đại hội cũng đã khẳng định vị trí, vai trò của Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và là thành viên của Hội Luật gia dân chủ quốc tế; xác định rõ hơn chức năng, các nhiệm vụ của Hội.  

 

Về đội ngũ hội viên, năm 1955 số hội viên là 40 người, năm 1957 là 270 người. Năm 1960, số hội viên tăng lên 333 người (gồm 216 hội viên công tác tại các cơ quan, tổ chức ở Trung ương và Hà Nội và 117 hội viên công tác tại một số địa phương miền Bắc. Năm 1962 (năm họp Đại hội IV), số hội viên về cơ bản chưa tăng nhiều, khoảng 400 người, công tác tại 95 cơ quan, tổ chức ở Trung ương và địa phương miền Bắc. Năm 1980 (Đại hội VI), Hội đã có 800 hội viên.

 

Mặc dù trong giai đoạn 1955-1980, số lượng hội viên chưa nhiều, tổ chức của Hội chưa phát triển, nhưng Hội đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ theo chức năng của Hội. Những kết quả đạt được trong các mặt hoạt động đó đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; góp phần phát triển nhiều nguyên tắc, vấn đề quan trọng trong luật pháp quốc tế, để lại ấn tượng sâu sắc trong giới luật gia Việt Nam và quốc tế.

 

 

 

 

2. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 2004

2.1. Tình hình, đặc điểm chung

Những năm đầu chuyển sang kỷ nguyên mới hòa bình, độc lập và thống nhất đất nước (1976-1986) nhân dân cả nước phải ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế. Miền Nam phải xây dựng hệ thống chính quyền mới ở các tỉnh; phải đấu tranh để đập tan mọi âm mưu chống phá cách mạng của các thế lực thù địch trong nước cấu kết với nước ngoài. Đó là một chặng đường đầy khó khăn, thử thách trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Nhân dân ta.

 Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để về kinh tế - xã hội, xác định những nhiệm vụ quan trọng, trong đó có phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu lực chỉ đạo, điều hành của bộ máy nhà nước... Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

Hiến pháp năm 1980 và 1992 được ban hành đã thể chế đường lối đổi mới của Đảng đã xác lập tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, xác định vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một số đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội.

Năm 2001, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã tổng kết 15 năm đổi mới, phát triển đường lối kinh tế với nội dung “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp”, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI với mục đích: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển (vào năm 2010), nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là một nhiệm vụ quan trọng của cả nước thời kỳ đổi mới”[6] .

Cũng trong thời kỳ này, sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Luật gia Việt Nam được tăng cường; nhiều văn bản quan trọng của Đảng, Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Hội đã được ban hành, tạo nhiều thuận lợi cho hoạt động của Hội Luật gia.

Trước hết là Chỉ thị 34-CT/TW ngày 14/4/1988 của Ban bí thư Trung ương Đảng về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Luật gia Việt Nam. Chỉ thị nêu rõ “Để tăng cường pháp chế XHCN, thực hiện việc quản lý đất nước bằng pháp luật theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, Hội Luật gia Việt Nam cần được củng cố và tăng cường về tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động, đặc biệt là tăng cường hoạt động trong nước”. Đây là Chỉ thị định hướng hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam bắt đầu thời kỳ đổi mới của đất nước.

Tiếp đó là Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 19/4/1993 của Ban bí thư Trung ương Đảng về việc lãnh đạo công tác Hội Luật gia Việt Nam. Chỉ thị nhấn mạnh: Hoạt động của Hội có vị trí quan trọng trong việc tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền, góp phần thực hiện nhiệm vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Hội có nhiệm vụ huy động giới luật gia tích cực tham gia nghiên cứu chuẩn bị các dự án pháp luật đáp ứng kịp thời yêu cầu của công cuộc đổi mới... Hội cần mở rộng quan hệ và sự hợp tác với các tổ chức Luật gia tiến bộ trong khu vực và trên thế giới; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh nhằm tạo môi trường pháp lý quốc tế thuận lợi phục vụ công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để làm tốt những nhiệm vụ trên đây, Chỉ thị yêu cầu: “Hội Luật gia Việt Nam cần được củng cố, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động. Hội vận động, tập hợp rộng rãi các luật gia thuộc các thành phần xã hội, tự nguyện hoạt động vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh; vừa coi trọng phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của đất nước, vừa quan tâm đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của hội viên... Hội cần mở rộng quan hệ hợp tác với các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế, xã hội, các đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân; Hoạt động của Hội phải đi sâu sát nhân dân, đáp ứng những đòi hỏi và nguyện vọng của nhân dân”. Đây là những yêu cầu mở ra cho Hội Luật gia Việt Nam những hướng hoạt động chủ yếu nhằm góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới của đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. 

Ngay sau đó tại Đại hội lần thứ VIII (tháng 5/1993), Đồng chí Đỗ Mười - Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ đạo “Chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu các vấn đề pháp luật quốc tế, tham gia các diễn đàn quốc tế, đấu tranh bác bỏ luận điệu của những người vi phạm nhân quyền nhưng lại vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ và nhân quyền; làm rõ bản chất tôn trọng tự do và quyền con người của Nhà nước ta và chế độ ta; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của dư luận rộng rãi, tích cực đóng góp xây dựng một trật tự thế giới công bằng, tiến bộ, vì sự nghiệp hoà bình, hợp tác và phát triển”. “Cùng với việc tham gia nghiên cứu các vấn đề pháp lý, chuẩn bị các dự án pháp luật, Hội cần góp phần vào việc phổ biến pháp luật, giáo dục nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong cán bộ và Nhân dân, tích cực tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật, đấu tranh chống vi phạm pháp luật và tội phạm, trước hết là chống tham nhũng và buôn lậu”.

Tiếp đó là Chỉ thị số 56-CT/TW ngày 18/8/2000 của Bộ chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác của Hội Luật gia Việt Nam, trong đó nhấn mạnh: “Lãnh đạo xây dựng củng cố Hội Luật gia Việt Nam để Hội Luật gia Việt Nam thực sự là một tổ chức nghề nghiệp mang tính chính trị, xã hội sâu sắc của những người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật”. Bằng Chỉ thị này của Bộ chính trị, tính chất của Hội Luật gia Việt Nam đã được xác định rõ hơn so với các thời kỳ trước đây (“là tổ chức của những người làm công tác pháp luật”, “là một tổ chức thống nhất của những người làm công tác pháp luật trên cả nước”). Trong giai đoạn này, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 06/2001/CT-TTg ngày 09/4/2001, về việc thực hiện các biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam.

 

2.2. Các kỳ Đại hội và phương hướng hoạt động chủ yếu

- Đại hội lần thứ VII, được tổ chức ngày 20 và 21/11/1987. Tham dự đại hội có 123 đại biểu đại diện cho trên 5.000 hội viên trong cả nước.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 45 ủy viên, trong đó có 24 đồng chí mới. Tại kỳ họp lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Hội đã bầu Ban thường vụ với 15 ủy viên, trong đó: Luật sư Phan Anh được bầu lại làm Chủ tịch Hội; các luật gia Phan Hiền, Phạm Hưng được bầu làm Phó Chủ tịchvà luật gia Nguyễn Thương được bầu làm Tổng thư ký. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ đổi mới tư duy, nội dung và phong cách công tác, tổ chức và cán bộ, tăng cường hoạt động đối ngoại, đối nội, chú trọng công tác xây dựng pháp luật kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy nền kinh tế XHCN nhằm tích cực phục vụ công cuộc đổi mới đất nước. Nhiệm vụ của Hội được ghi nhận trong Điều lệ hội bao gồm: (1) Tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức làm chủ và ý thức pháp luật XHCN trong nhân dân và cán bộ; xây dựng pháp luật và giám sát việc thi hành pháp luật, kiến nghị với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội về những vấn đề xây dựng và thi hành pháp luật; (2) Bồi dưỡng kiến thức pháp lý, trình độ chuyên môn pháp luật cho hội viên; (3) Tham gia những hoạt động chính trị pháp lý phục vụ các trọng tâm công tác của Đảng và của Nhà nước, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật; (4) Hợp tác chặt chẽ với Hội Luật gia dân chủ quốc tế, với các tổ chức luật gia của Liên Xô, Lào, Campuchia và luật gia các nước XHCN anh em khác, với các tổ chức luật gia tiến bộ trên thế giới, tham gia tích cực các hoạt động quốc tế đấu tranh vì một thế giới hòa bình, công bằng và tiến bộ; (5) Xuất bản sách, báo pháp lý.

- Đại hội lần thứ VIII, được tổ chức ngày 25 và 26/5/1993. Tham dự đại hội có 120 đại biểu của 26 tỉnh, thành Hội, 23 Chi Hội trực thuộc Trung ương Hội, đại diện cho trên 5.200 hội viên trong cả nước.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội với 52 ủy viên. Tại kỳ họp lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Hội đã bầu Ban Thường vụ với 17 ủy viên, trong đó: Ông Phùng Văn Tửu được bầu làm Chủ tịch; ông Lưu Văn Đạt làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký; ông Nguyễn Đình Lộc và bà Ngô Bá Thành làm Phó Chủ tịch. Đại hội đã thông qua Điều lệ (sửa đổi), trong đó xác định các nhiệm vụ chính của Hội gồm: (1) Tập hợp đội ngũ những người đã và đang làm công tác pháp luật, xây dựng Hội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và nghề nghiệp; (2) Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong hội viên, viên chức Nhà nước và nhân dân; (3) Tham gia xây dựng pháp luật; tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật và kiến nghị về những vấn đề xây dựng và thi hành pháp luật; (4) Thành lập các tổ chức tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý và tham gia giám sát hoạt động của các tổ chức luật sư, tư vấn và dịch vụ pháp lý; (5) Xuất bản và phát hành sách, tạp chí, báo pháp luật; (6) Tham gia các hoạt động quốc tế phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Hội...

- Đại hội lần thứ IX, được tổ chức ngày 12/12/1998. Tham dự Đại hội có 177 đại biểu của 48 tỉnh, thành Hội và 32 chi Hội luật gia trực thuộc Trung ương Hội, đại diện cho 13.000 hội viên trong cả nước.

Đại hội đã bầu ra 77 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội. Tại kỳ họp lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Hội đã bầu Ban Thường vụ với 19 ủy viên, trong đó: ông Phạm Hưng được bầu làm Chủ tịch; ông Lưu Văn Đạt làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký; ông Nguyễn Đình Lộc, ông Hà Mạnh Trí và bà Ngô Bá Thành làm Phó Chủ tịch.

Hội vẫn tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu được xác định trong Điều lệ năm 1993, trong đó hoạt động trong nhiệm kỳ 1998- 2003 được định hướng như sau: “Tiếp tục củng cố, phát triển có trọng điểm Hội về chiều rộng và chiều sâu; đa dạng hóa hoạt động ở trong nước và trong quan hệ với nước ngoài; tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động; phát huy nội lực, nhiệt tình và tiềm năng trí tuệ của hội viên; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hội viên và các cấp Hội, trên cơ sở đó, nâng cao vị thế của Hội là một tổ chức chính trị - xã hội, góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước”.

- Đại hội lần thứ X, được tổ chức trong các ngày 12 và 13/3/2004. Tham dự Đại hội có 262 đại biểu của 58 tỉnh, thành Hội và 44 chi Hội luật gia trực thuộc Trung ương Hội, đại diện cho 28.400 hội viên trong cả nước.

Đại hội đã bầu ra 93 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội. Tại kỳ họp lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Hội đã bầu Ban Thường vụ với 21 ủy viên, trong đó: ông Phạm Quốc Anh được bầu làm Chủ tịch; ông Đào Trí Úc làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký; các ông Hà Mạnh Trí, Trịnh Hồng Dương, Trần Đại Hưng, Đặng Quang Phương, Hoàng Thế Liên và bà Đồng Thị Ánh làm Phó Chủ tịch.

Nhiệm vụ của Hội cũng đã được mở rộng hơn so với giai đoạn trước trên tinh thần kế thừa và phát huy, với các nội dung chủ yếu như: (1) Tập hợp đội ngũ những người đã và đang làm công tác pháp luật, xây dựng Hội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và nghề nghiệp; (2) Tham gia xây dựng pháp luật; nghiên cứu khoa học pháp lý; tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật; kiến nghị với cơ quan Nhà nước về những vấn đề xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật; (3) Tham gia tuyên truyền pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho Hội viên, cán bộ, công chức và nhân dân; (4) Tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách; thành lập các tổ chức tư vấn pháp luật theo quy định của pháp luật; (5) Tham gia một số hoạt động quản lý Nhà nước; (6) Tham gia những hoạt động chính trị, pháp lý phục vụ nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; (7) Xuất bản và phát hành sách, tạp chí, báo pháp luật; (8) Tham gia các hoạt động quốc tế phù hợp với tôn chỉ, mục đích..

 

 

 

 

 

2.3. Những thành tựu chủ yếu trên các mặt hoạt động

Trong giai đoạn 1980-2004 các cấp Hội đã triển khai nhiều hoạt động phong phú, đa dạng, có trọng tâm, trọng điểm và đã đạt được những kết quả đáng quan trọng, trong đó có những thành tựu chủ yếu dưới đây.

2.3.1. Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật

- Các cấp Hội đã tập hợp đông đảo luật gia thuộc nhiều thế hệ, có kiến thức, có kinh nghiệm, đương chức và đã nghỉ hưu dành nhiều công sức tham gia ý kiến vào các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước. Đối với những dự thảo văn kiện của Đảng, dự thảo sửa đổi Hiến pháp, diện tham gia ý kiến được mở rộng đến các chi hội trực thuộc Trung ương Hội, các Chi hội luật gia cơ sở. Hội đã tích cực tham gia ý kiến vào các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, có liên quan đến vấn đề nhà nước, dân chủ, pháp luật, như báo cáo tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 3, khóa VIII, với chủ đề “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh”.

- Một trong những hoạt động quan trọng của Hội trong giai đoạn này là đã tham gia tích cực vào việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Hội Luật gia Việt Nam đã cử đại diện tham gia vào Ủy ban sửa đổi Hiến pháp; tổ chức nghiên cứu và lấy ý kiến rộng rãi của giới luật gia vào dự thảo sửa đổi bổ sung Hiến pháp năm 1992; phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, các cấp Hội luật gia đã thảo luận và góp nhiều ý kiến vào dự án sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Các cấp Hội đã tập trung làm rõ một số vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật như tính chất của Nhà nước Việt Nam, khái niệm nhà nước của dân, do dân, vì dân, quan hệ giữa cơ quan công quyền, cán bộ, công chức với nhân dân theo tư tưởng của Hồ Chủ tịch, quản lý nhà nước và quản lý nghề nghiệp đối với luật sư... Nhiều ý kiến đóng góp của Trung ương Hội và các cấp hội địa phương đã được Ủy ban Trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam và Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đánh giá cao.

- Trong giai đoạn này, Hội đã tham gia tích cực vào công tác xây dựng pháp luật với nhiều hình thức như: trực tiếp tham gia ý kiến với Ban soạn thảo dự án, góp ý kiến bằng văn bản; phát biểu ý kiến trên các báo của Hội, các báo và phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương, tại các cuộc hội thảo khoa học, tại Hội đồng tư vấn về dân chủ pháp luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các Ủy ban của Quốc hội. Hội đã tham gia, đóng góp được nhiều ý kiến có giá trị cho các dự án luật, pháp lệnh quan trọng như: Các luật về tổ chức bộ máy nhà nước; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Bộ luật Lao động, Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Hôn nhân và gia đình, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Giao thông đường bộ; Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã (sửa đổi), các luật thuế, Pháp lệnh về các biện pháp tự vệ trong thương mại hàng hóa với nước ngoài... Đặc biệt các dự án pháp luật có liên quan đến giới luật gia như: Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm tòa án nhân dân (sửa đổi), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh Luật sư, Nghị định của Chính phủ về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật, được Trung ương Hội đặc biệt quan tâm, tham gia ý kiến nhiều lần với các Ban soạn thảo các dự án đó.

- Một thành tựu đáng khích lệ trong hoạt động tham gia xây dựng pháp luật trong giai đoạn này là Hội đã xây dựng thành công Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25/2/2003, góp phần hoàn thiện pháp luật kinh doanh ở nước ta.

Trong quá trình tham gia xây dựng pháp luật, các cấp Hội đã kiên trì quan điểm xã hội hóa các hoạt động kinh tế - xã hội, xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách. Ngoài việc tham gia xây dựng pháp luật, nhiều chi hội xã, phường và một số hội viên sinh hoạt tại khu dân cư đã chủ động tham gia xây dựng hương ước, quy ước thôn, làng, ấp, bản, khu phố; quy chế dân chủ xã, phường, thị trấn. Hoạt động này của các chi hội được nhân dân rất hoan nghênh, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc ủng hộ, đề nghị nhân rộng[7].

 

 

2.3.2. Tham gia công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, các cấp Hội Luật gia, nhất là cấp hội cơ sở đã tập trung công sức để đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đến các tầng lớp nhân dân. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật của các cấp Hội ngày càng phát triển, mở rộng ra cả nước, giành được những kết quả đáng khích lệ. Thực hiện phương châm toả về cơ sở, các cấp hội địa phương đã triển khai hoạt động truyên truyền, phổ biến pháp luật đến tận xã, phường, các cụm dân cư.

Các cấp hội đã phát huy tính chủ động và sáng tạo, sử dụng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, hấp dẫn tuỳ thuộc vào đối tượng và điều kiện của từng cấp Hội như tuyên truyền miệng, sinh hoạt câu lạc bộ, toạ đàm, giải đáp pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng, viết bài đăng các báo và cho Đài truyền hình, truyền thanh của Trung ương và địa phương, biên soạn những cuốn sách và tài liệu giới thiệu pháp luật, tổ chức các buổi hội thảo, các đợt tập huấn, gắn tuyên truyền pháp luật với hoạt động văn nghệ, phát hành tạp chí, báo, bản tin...[8] Nhiều cấp Hội đã phát huy được vai trò trong việc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, sáng tác ca khúc pháp luật. Đó là một hình thức tuyên truyền hấp dẫn được đông đảo các tầng lớp nhân dân hưởng ứng.

Ngoài ra các cấp hội cũng cử đại diện tham gia Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được thành lập theo Quyết định số 03/QĐ-TTg ngày 07/11/1998 của Thủ tướng Chính phủ, đóng góp tích cực vào việc xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với yêu cầu, điều kiện từng địa phương.

2.3.3. Tham gia tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tham gia hoà giải ở cơ sở và giám sát việc thi hành pháp luật  

Từ năm 1988 Hội thành lập trung tâm tư vấn pháp luật đầu tiên tại nước ta để thực hiện hoạt động chuyên trách về tư vấn pháp luật - Trung tâm tư vấn pháp luật Thăng Long. Những năm tiếp theo, một số tỉnh, thành Hội đã thành lập Văn phòng tư vấn pháp luật đáp ứng định hướng thúc đẩy hoạt động tư vấn pháp luật.

Việc tư vấn cho người dân trong những vụ việc cụ thể, được cấp ủy Đảng, chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp hoan nghênh, ủng hộ, đánh giá cao.Thông qua hình thức tư vấn này, các Chi hội xã, phường, thị trấn và hội viên có điều kiện giúp cho các đối tượng được tư vấn ứng xử, hành động, giải quyết các vụ, việc nảy sinh trong đời sống xã hội theo các quy định của pháp luật. Ngoài việc tư vấn cho các tầng lớp nhân dân, một số cấp hội đã tư vấn cho chính quyền cùng cấp nhằm giúp chính quyền xử lý những vấn đề bức xúc ở địa phương như giải quyết các tranh chấp về đất đai, giải phóng mặt bằng, ách tắc giao thông, khiếu nại, tố cáo.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 18/5/1995 là “Mở rộng tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng yêu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao ý thức và ứng xử theo pháp luật của công dân trong quan hệ đời sống hàng ngày”, hoạt động tư vấn pháp luật phổ thông (miễn phí) do Hội đảm nhiệm không ngừng mở rộng tại các địa phương đã phát triển Chi hội luật gia xã, phường, thị trấn. Bên cạnh hình thức tư vấn pháp luật phổ thông, từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX, Trung ương Hội và một số tỉnh, thành Hội đã thành lập một số Trung tâm, Văn phòng tư vấn pháp luật có thu với định hướng nguồn thu chỉ để cân đối các khoản chi, không nhằm mục đích kinh doanh.

 

Nhận thấy trong điều kiện nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách là một vấn đề xã hội bức xúc ở nước ta, cũng như nhận thức rõ trách nhiệm của Hội trong lĩnh vực này, các cấp Hội đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan trợ giúp pháp lý nhà nước, đồng thời trực tiếp trợ giúp pháp lý cho các đối tượng nói trên thông qua các Trung tâm, Văn phòng tư vấn pháp luật.

Thực hiện Pháp lệnh ngày 25/12/1998 về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, các cấp hội địa phương, các Chi hội cơ sở xã, phường, thị trấn đã tích cực tham gia hoạt động này. Chi hội cơ sở xã, phường, thị trấn đã tích cực vận động hội viên sinh hoạt tại các khu dân cư tham gia các tổ hòa giải ở thôn, xóm, bản ấp, tổ dân phố. Hoạt động hòa giải ở cơ sở với sự tham gia của các hội viên của Hội đã phát huy tác dụng giúp các bên tranh chấp giải quyết ngay từ đầu những tranh chấp nhỏ phát sinh ở khu dân cư, xử lý các vướng mắc trong quan hệ dân sự..., góp phần bảo đảm đoàn kết trong nội bộ nhân dân, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân, hạn chế các vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.

HLG Đồng Nai tổ chức trợ giúp pháp lý cho 5000 nông dân địa phương  đòi bồi thường thiệt hại do hành vi xả thải gây ô nhiễm môi trường  sông Thị Vải của công ty VEDAN

2.3.4. Tham gia xây dựng bộ máy Nhà nước

Từ năm 1993, thực hiện Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993, Trung ương Hội và các tỉnh, thành Hội đã cử đại diện tham gia các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp. Nhận thức rõ vai trò của mình trong hoạt động này, các cấp Hội đã thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ, tích cực nói lên tiếng nói của giới luật gia tại các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán toà án nhân dân các cấp, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các ngành Toà án và Kiểm sát trong cả nước.

Ngoài ra các cấp Hội cũng thực hiện đúng và đầy đủ kế hoạch của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp về việc tham gia tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và đã có nhiều đóng góp vào thành công của các cuộc bầu cử.

2.3.5. Hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý

Thực hiện mục tiêu “góp phần xây dựng nền khoa học pháp lý” được ghi trong Điều lệ Hội, trong thời kỳ 1980 - 2004, nhiều cấp Hội đã quan tâm đến hoạt động nghiên cứu về những chủ đề thiết thực, có ý nghĩa thực tiễn; trên cơ sở gắn công tác nghiên cứu các vấn đề pháp luật với việc xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật của thời kỳ đổi mới.

Hoạt động nghiên cứu của các cấp Hội phát triển, mở rộng nhất là trong các khóa VIII và IX và đã thu được những kết quả đáng khích lệ.

Năm 1999 Trung ương Hội phối hợp với Trung tâm luật khu vực Mê Công chủ trì nghiên cứu và đăng cai tổ chức Hội thảo quốc tế về chủ đề: “Chống buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam và trong khu vực Đông Nam Á”. Cuộc hội thảo này được các đại biểu tham gia Hội thảo đánh giá cao và có tiếng vang trong khu vực Mê Công. Chi hội luật gia Công ty sở hữu trí tuệ (INVENCO) phối hợp với các cơ quan hữu quan thuộc Bộ Thương mại, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa-Thông tin và Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) tổ chức thành công nhiều cuộc hội thảo về chủ đề “Quyền sở hữu trí tuệ và chống hàng giả”, một chủ đề rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường và nhạy cảm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong những năm 1998-2004, nhiều tỉnh, thành Hội, chi Hội thuộc Trung ương Hội cũng tổ chức nghiên cứu hàng chục đề tài khoa học pháp lý. Các công trình nghiên cứu nói trên được các cơ quan nghiệm thu đánh giá cao và đề nghị chính quyền địa phương cho áp dụng vào thực tiễn[9].

2.3.5. Hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế

Trong giai đoạn 1980-2004, thực hiện đường lối đối ngoại mở rộng và chính sách đối ngoại nhân dân của Đảng và Nhà nước, hoạt động quốc tế của Hội được mở rộng về địa bàn, phong phú, đa dạng về nội dung, với sự tham gia của nhiều cấp Hội. 

Hội tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với Hội Luật gia Dân chủ quốc tế (IADL). Hội đã tranh thủ tối đa tư cách là thành viên của IADL để vận động IADL ủng hộ các vấn đề có liên quan của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhờ đó nhiều tổ chức luật gia quốc tế đã nhiệt tình ủng hộ nhân dân và luật gia Việt Nam trong công cuộc đấu tranh trên mặt trận pháp lý bảo vệ lợi ích, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Tại Đại hội lần thứ XV của IADL vào năm 2000, Hội đã vận động IADL thông qua Nghị quyết lên án các lực lượng vũ trang Mỹ rải chất độc da cam/đi-ô-xin trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và yêu cầu Chính phủ Mỹ phải bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam. Việc tăng cường hợp tác với IADL cũng đã góp phần tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội, chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước. Năm 2001, lần đầu tiên Hội Luật gia Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị luật gia Châu Á - Thái Bình Dương lần III (COLAP III) tại Hà Nội với chủ đề “Hoà bình, nhân quyền, phát triển ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong bối cảnh toàn cầu hoá”. Đây là một hội nghị có quy mô lớn và có ý nghĩa quan trọng, tập hợp rộng rãi các luật gia trong khu vực và ngoài khu vực để trao đổi ý kiến về các vấn đề bức xúc có liên quan đến hoà bình, nhân quyền và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá dưới góc độ pháp lý - chính trị. COLAP III đã nhất trí thông qua “Lời kêu gọi Hà Nội, vì hoà bình và phát triển ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương” - một văn kiện có ý nghĩa quan trọng vào thời điểm lịch sử ở những năm đầu tiên của thế kỷ 21.

Hội duy trì mối quan hệ hữu nghị với các tổ chức luật gia khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và những nước đã có truyền thống hữu nghị, từng bước mở rộng quan hệ với các tổ chức luật gia có uy tín thuộc nhiều xu hướng khác nhau trong khu vực và trên thế giới. Năm 1995, Hội là thành viên sáng lập của Trung tâm pháp luật các nước khu vực Mê Công gồm Thái Lan, Cam- pu-chia, Lào và Việt Nam. Tháng 11/1997 Hội Luật gia Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Hiệp hội Luật gia Đông Nam Á (ASEAN Law Association - ALA)[10]. Hội cũng duy trì quan hệ hữu nghị với Hội Luật gia Cuba, Hội Luật gia Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên. Năm 2001, Hội chủ động nối lại quan hệ với Hội Luật học Trung Quốc (China Law Society) sau nhiều năm quan hệ giữa hai bên bị gián đoạn. Kể từ đó, hai bên thường xuyên trao đổi phái đoàn đi thăm và làm việc tại Việt Nam và Trung Quốc.

 

Hội cũng đã thiết lập quan hệ với một số tổ chức của Liên hiệp quốc tại Việt Nam như UNICEF, UNDP...

Đại diện giới luật gia Việt Nam, Hội đã thể hiện rõ quan điểm về các vấn đề quốc tế quan trọng để góp phần đấu tranh chung cùng các luật gia tiến bộ trên thế giới như: chống chế độ phân biệt chủng tộc A-pác-thai; chống chạy đua vũ trang; thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế mới, một trật tự dân chủ quốc tế mới; thiết lập các khu vực không hạt nhân. Tại Đại hội Hội luật gia dân chủ quốc tế lần thứ XII vào tháng 10 năm 1984, Luật sư Phan Anh - Chủ tịch Hội đã được bầu làm Chủ tịch Tiểu ban II để điều khiển cuộc thảo luận về quyền phát triển của các nước đang phát triển, trong đó vấn đề nợ của các nước thuộc thế giới thứ 3 đã được xem xét dưới nhiều khía cạnh[11]. Hội cũng lên tiếng đấu tranh, bày tỏ quan điểm về các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc thiểu số, tôn giáo như: Tuyên bố phản đối hành động của NATO và Mỹ tấn công, ném bom Nam Tư; Tuyên bố lên án mạnh mẽ hành động xâm lược của I-xa-ren đối với Pa-lét-tin; Tuyên bố kịch liệt phản đối Hạ viện Mỹ thông qua Đạo luật nhân quyền Việt Nam; Tuyên bố phản đối Hạ viện Bang Vi-gin- na của Mỹ thông quan dự luật cho phép treo cờ của Chính quyền Sài Gòn cũ tại các công sở, trường học của bang này; Tuyên bố phản đối Chính quyền Mỹ, Anh phát động chiến tranh tấn công I-rắc; Tuyên bố phản đối Hạ viện Mỹ thông qua một số điều khoản bổ sung Luật chi tiêu đối ngoại (HR 1950 ngày 15/7/2003) của Bộ ngoại giao Mỹ xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền.

Từ năm 1995 Hội phát hành Tạp chí pháp luật Việt Nam bằng tiếng Pháp và tiếng Anh để nói lên tiếng nói của giới luật gia Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống các luận điệu xuyên tạc chế độ XHCN. Tạp chí cũng giúp các nhà kinh doanh nước ngoài tìm hiểu những đổi mới của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là pháp luật kinh doanh, nhất là pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và pháp luật thương mại. Tạp chí đã được nhiều bạn đọc nước ngoài hoan nghênh, ủng hộ và được phổ biến ở nhiều nước dưới dạng trao đổi sách báo.

2.4. Xây dựng tổ chức Hội và phát triển hội viên[12]

Trong thời kỳ này, Hội chuyển hướng hoạt động, phát triển, đẩy mạnh các hoạt động trong nước, đổi mới phương thức hoạt động theo hướng thiết thực, tránh hình thức; có chất lượng, hiệu quả; vận dụng các hình thức dân vận.

Thực hiện chủ trương này, tại Đại hội VI (1980), Điều lệ của Hội được sửa đổi, theo đó tổ chức của Hội gồm có:

- Ở Trung ương: Trung ương Hội;

- Ở Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương: Tỉnh hội, Thành hội;

- Ở Huyện và cấp tương đương, ở các cơ quan Trung ương: Tổ hội viên.

Sau năm 1980, tổ chức Hội được mở rộng ra nhiều địa phương, trong đó có các tỉnh Quảng Ninh, Hà Sơn Bình, Hà Nam Ninh..., nhiều ngành như ngành Tư pháp, Tòa án, Kiểm sát, Ngoại giao, Ngoại thương, Ngân hàng, Lao động, Giao thông vận tải v.v..., một số trường Đại học và Viện nghiên cứu pháp luật.

Đại hội VIII (1993) đã chủ trương hoàn thiện hệ thống tổ chức Hội theo hướng phát triển mạnh mẽ, tổ chức Hội ra cả nước theo mô hình 4 cấp:Trung ương Hội; Tỉnh hội, Thành hội; Huyện hội, Quận hội;Chi hội cơ sở.

Thực hiện chủ trương nói trên, Điều lệ Hội được sửa đổi năm 1993 quy định Hội luật gia Việt Nam có tổ chức từ Trung ương đến cơ sở gồm:

- Đại hội đại biểu toàn quốc (cơ quan lãnh đạo của Hội);

- Ban Chấp hành Trung ương Hội;

- Ban Thường vụ Trung ương Hội;

- Các Tỉnh hội, Thành hội (gọi chung là Tỉnh hội);

- Các Quận hội, Huyện hội, các cấp Hội tương đương (gọi chung là Huyện hội);

- Tổ chức Hội ở cơ sở (gọi tắt là Chi hội) gồm Chi hội cơ quan, tổ chức trực thuộc Trung ương Hội, trực thuộc Tỉnh hội và Chi hội cấp phường, xã, thị trấn”.

Chỉ thị số 56-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 18/8/2000 và Chỉ thị số 06/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 2001 đã thúc đẩy mạnh mẽ việc phát triển, mở rộng tổ chức Hội: Tại Chỉ thị số 56-CT/TW, Bộ Chính trị chỉ đạo: “Vận động đông đảo những người đã và đang làm công tác pháp luật trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội, những người hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật tham gia tổ chức Hội. Tỉnh chưa có tổ chức Hội, Đảng đoàn Trung ương Hội luật gia Việt Nam phối hợp với cấp ủy địa phương vận động thành lập Hội và triển khai hoạt động”.

Chỉ thị số 06/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế quan tâm đến việc mở rộng tổ chức Hội luật gia Việt Nam: “Ở những nơi có đủ điều kiện mà chưa thành lập tổ chức Hội luật gia, cần hỗ trợ cho việc thành lập tổ chức Hội luật gia và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Hội”.

Năm 2004, tại Đại hội X Điều lệ Hội được sửa đổi khẳng định hệ thống tổ chức Hội đã hình thành. Theo Điều 8 (Tổ chức của Hội luật gia), Hội luật gia Việt Nam được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở bao gồm:

- Trung ương Hội;

- Tình hội, Thành hội trực thuộc Trung ương Hội (gọi chung là Hội luật gia cấp tỉnh);

- Quận hội, Huyện hội, Thành hội, Thị hội (gọi chung là Hội luật gia cấp huyện) trực thuộc Hội luật gia cấp tỉnh;

- Chi hội luật gia cơ sở.

Với việc sửa đổi Điều lệ năm 1993 và việc thực hiện các Chỉ thị số 56/CT-TƯ và Chỉ thị số 06/2001/CT-TTg, từ năm 1993, tổ chức của Hội mở rộng ra cả nước.

Quán triệt Chỉ thị số 56/CT-TƯ và Chỉ thị số 06/2001/CT-TTg, nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và cơ quan Nhà nước ở Trung ương đã quan tâm lãnh đạo, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho Hội mở rộng tổ chức tại nhiều địa phương, nhiều ngành, nhiều cơ quan Nhà nước.

Tại nhiều địa phương, tổ chức Hội đã phát triển đến các quận, huyện, thị xã, phường, xã, thị trấn như Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Tỉnh Hải Dương, Tỉnh Quảng Ninh v.v. và một số cơ quan, tổ chức cấp tỉnh, cấp huyện. Đầu năm 2005 Hội đã thiết lập được:

- 62 Hội luật gia cấp tỉnh;

- 44 Chi hội luật gia trực thuộc Trung ương Hội;

Một số cấp Hội đã bảo đảm được vai trò nòng cốt tại Hội đồng tư vấn Dân chủ pháp luật của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cùng với việc mở rộng tổ chức, việc phá triển hội viên được nhiều cấp Hội quan tâm. Số lượng hội viên tăng với nhịp độ khá nhanh: Từ 800 năm 1980 tăng lên 5.200 hội viên năm 1993, 13.000 năm 1998, 30.500 đầu năm 2005, 80% hội viên là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và có trình độ đại học và trên đại học. Đó chính là tiền lực trí tuệ dồi dào của Hội luật gia Việt Nam.

Có thể nói, trong giai đoạn này Trung ương Hội và một số cấp Hội địa phương đã hoàn thành xuất sắc mục tiêu phát triển tổ chức, hội viên, tích cực mở rộng địa bàn hoạt động, phát triển các hoạt động trong nước, hướng về cơ sở, đồng thời tiếp tục coi trọng, mở rộng hoạt động đối ngoại góp phần thực hiện đường lối và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Những kết quả đạt được đã góp phần xây dựng hệ thống pháp luật; đưa pháp luật vào cuộc sống; xây dựng ý thức tuân thủ pháp luật; đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc đường lối đổi mới của Nhà nước ta, chống âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch, chống các hành động xâm phạm chủ quyền quốc gia, góp phần bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; góp phần giúp bạn bè quốc tế có một hình ảnh đúng đắn, đầy đủ và tốt đẹp hơn về hệ thống pháp luật của nước ta, về sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

3. Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2015

3.1. Tình hình, đặc điểm chung

Bước vào thế kỷ XXI, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới, nhưng có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Cục diện thế giới phát triển theo hướng đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt, đặc biệt là trên Biển Đông.

Đại hội lần thứ X và XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ cần tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của đất nước ta. Quá trình đổi mới với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế đã đưa Việt Nam lên vị thế ngày càng cao trong cộng đồng quốc tế. Đảng và Nhà nước ta chủ trương khai thác tối đa ưu thế của hội nhập để phục vụ phát triển đất nước. Trên nền của những thành tựu đã đạt được, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với những nội dung cơ bản là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, thúc đẩy nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng; dành sự quan tâm thích đáng cho việc thực thi và phát triển dân chủ XHCN, thực hiện cơ chế giám sát và phản biện xã hội, không ngừng đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam và các thiết chế tổ chức xã hội, xây dựng đất nước ta dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

Năm 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 48- NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp. Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành đã có nhiều nỗ lực đổi mới quy trình xây dựng và ban hành chính sách, văn bản pháp luật nhằm thu hút nhiều hơn sự quan tâm và tham gia xây dựng chính sách và pháp luật từ phía người dân, các chuyên gia, các doanh nghiệp, đặc biệt là các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, trong đó có Hội Luật gia Việt Nam. Nhiều nội dung cải cách tư pháp đã được triển khai thực hiện. Nhiều đề án cải cách các cơ quan tư pháp đã được tích cực xây dựng, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý tốt hơn cho hoạt động của các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đã được triển khai ở hầu khắp các địa phương, ở nhiều ngành và lĩnh vực theo tinh thần của Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân”.  

Thời kỳ này, Đảng và Chính phủ quan tâm hơn đến việc lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam, nhiều văn bản quan trọng của Đảng, Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Hội được ban hành, cụ thể là: Kết luận số 19/KL-TW ngày 23/5/2012 của Ban Bí thư về tổng kết thực hiện Chỉ thị số 56- CT/TW ngày 18/8/2000 của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 06/2001/CT- TTg ngày 09/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện các biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam; sau hơn 1 năm thực hiện Chỉ thị 06/2001/CT-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp làm việc với Hội Luật gia Việt Nam (Thông báo số 270/TB-VPCP ngày 26/7/2012 của Văn phòng Chính phủ). Ngày 24/5/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 08/2013/CT-TTg về việc thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam trong giai đoạn mới.

3.2. Các kỳ Đại hội và những phương hướng hoạt động chủ yếu

 - Đại hội lần thứ XI được tổ chức trong các ngày 30 và 31/12/2009. Tham dự Đại hội có 326 đại biểu của 62 tỉnh, thành Hội và 52 chi Hội luật gia trực thuộc Trung ương Hội, đại diện cho 40.500 hội viên trong cả nước.

Đại hội đã bầu ra 107 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội. Tại kỳ họp lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Hội đã bầu Ban Thường vụ với 23 ủy viên, trong đó: ông Phạm Quốc Anh được bầu lại làm Chủ tịch, ông Lê Minh Tâm làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký; các ông Nguyễn Văn Hiện, Hoàng Nghĩa Mai, Đặng Quang Phương, Hoàng Thế Liên, Nguyễn Văn Thảo, Nguyễn Vĩnh Oánh và bà Đồng Thị Ánh làm Phó chủ tịch.

Tại kỳ họp ngày 27/12/2013, trên cơ sở quyết định điều chuyển cán bộ của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Hội đã bầu bổ sung ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Trung ương Hội và chức vụ Phó Chủ tịch Hội đối với ông Nguyễn Văn Quyền.

Đại hội đã thông qua Điều lệ (sửa đổi), khẳng định Hội Luật gia Việt Nam là tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, xác định rõ 13 nhiệm vụ của Hội và bổ sung một số quy định mới. Sau đó, trong Kết luận số 19-KL/TW ngày 23/5/2012 của Ban Bí thư và Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 24/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ những nội dung này của Điều lệ Hội đã được ghi nhận, đồng thời Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ đạo và giao cho Hội một số nhiệm vụ mới.  

Theo đó, bên cạnh nhiệm vụ chung như: Tập hợp đội ngũ những người đã và đang làm công tác pháp luật, xây dựng Hội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và nghề nghiệp; giải quyết khiếu nại, tố cáo của hội viên theo quy định của pháp luật và Điều lệ Hội; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Hội và hội viên phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Hội..., các nhiệm vụ cụ thể về chuyên môn của Hội được mở rộng nhiều so với các giai đoạn trước đây, bao gồm: Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý; tham gia các hoạt động giám sát, phản biện xã hội, giám sát việc thực hiện pháp luật, hòa giải ở cơ sở, tư vấn giải quyết khiếu nại, giải quyết các tranh chấp pháp lý ngoài cơ chế nhà nước; tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý; xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý; tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn một số chức danh tư pháp, hội thẩm nhân dân và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật; mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế.

 

Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội Luật gia Việt Nam lần thứ XI,  nhiệm kỳ 2009-2014

 

 

- Đại hội lần thứ XII được tổ chức trong các ngày 19 và 20/9/2014 dự Đại hội có 326 đại biểu của 63 tỉnh, thành Hội và 52 Chi Hội luật gia trực thuộc Trung ương Hội, đại diện cho hơn 46.000 hội viên trong cả nước.

Đại hội đã bầu ra 111 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội. Tại kỳ họp lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Hội đã bầu Ban Thường vụ với 24 ủy viên, trong đó: ông Nguyễn Văn Quyền được bầu làm Chủ tịch, ông Lê Minh Tâm làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký; các ông Phan Chí Hiếu, Nguyễn Doãn Khánh, Trần Công Phàn, Nguyễn Sơn và bà Lê Thị Kim Thanh làm Phó chủ tịch.

Hội tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ đã được xác định tại Điều lệ Hội được thông qua từ Đại hội XI năm 2009 và một số nhiệm vụ mới được giao trong nhiệm kỳ.

 

Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội Luật gia Việt Nam lần thứ XII,  nhiệm kỳ 2014-2019

3.3. Những thành tựu chủ yếu trên các mặt hoạt động

Trong giai đoạn 2004-2015, các hoạt động của Hội được mở rộng, khối lượng các việc cần thực hiện ngày càng nhiều, trong đó có những việc mới và khó. Các cấp Hội và hội viên đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế của đất nước.

3.3.1. Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật

Xác định tham gia xây dựng chính sách, pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Hội Luật gia Việt Nam,Hội đã có nhiều biện pháp để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng của công tác tham gia xây dựng chính, sách pháp luật và đã thu được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, trong đó có những thành tựu nổi bật sau đây:

- Chủ trì xây dựng thành công Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Trung ương Hội đã huy động được các luật gia có trình độ cao, có kinh nghiệm và nhiệt tình tham gia vào quá trình xây dựng Dự án luật. Ngày 17/6/2010 tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII, Luật Trọng tài Thương mại đã được thông qua. Năm 2013, Hội tiếp tục được giao chủ trì xây dựng dự án Luật Trưng cầu ý dân. Hội đang triển khai nhiều hoạt động để hoàn thành có chất lượng cao dự án Luật theo kế hoạch.

- Tổ chức tốt việc lấy ý kiến luật gia góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Hội Luật gia Việt Nam đã cử đại diện tham gia vào Ủy ban sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và đã triển khai nhiều hoạt động sâu rộng trong các cấp hội, tập hợp được hàng nghìn ý kiến của đội ngũ luật gia trong cả nước góp ý sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992. Hội đã tổ chức 5 cuộc hội thảo khoa học chuyên sâu để lấy ý kiến Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Trung ương Hội, các luật gia, các chuyên gia, các nhà khoa học và Báo cáo góp ý của Hội Luật gia Việt Nam được Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 và các cơ quan hữu quan đánh giá cao.

- Hoàn thành tốt các nhiệm vụ được phân công trong các ban soạn thảo, tổ biên tập các dự án luật, pháp lệnh, nghị định. Trong giai đoạn 2004 - 2015, Hội đã cử người tham gia trực tiếp vào hơn 20 ban soạn thảo, tổ biên tập các dự án luật, pháp lệnh và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác, trong đó có các dự án luật quan trọng như: Bộ luật Dân sự sửa đổi, Bộ luật Hình sự sửa đổi, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, Luật Luật sư sửa đổi, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Hòa giải ở cơ sở... Nhiều chi hội luật gia ở các bộ, ngành và các cấp hội luật gia ở địa phương đã phát huy tốt vai trò, trực tiếp tham gia và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong các ban soạn thảo, tổ biên tập của nhiều văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành và địa phương.

- Tổ chức góp ý kiến vào nhiều dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Trong 10 năm (từ 2004-2014), Trung ương Hội đã tổ chức hơn 70 cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học để tham gia góp ý kiến cho các chương trình, dự án, dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định quan trọng. Ngoài ra, Hội Luật gia Việt Nam cũng đã tổ chức góp ý trực tiếp vào hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật khác.

- Tham gia khảo sát, tổng kết, đánh giá việc thi hành pháp luật trong thực tiễn. Trong giai đoạn này, Hội Luật gia Việt Nam đã tham gia có hiệu quả vào việc khảo sát, tổng kết việc thi hành pháp luật đối với một số văn bản luật như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Phá sản doanh nghiệp... và đã kịp thời có báo cáo tổng kết gửi Bộ Tư pháp, các cơ quan hữu quan và được đánh giá cao. Hoạt động này góp phần tạo ra một kênh thông tin khách quan có ý nghĩa phản biện và có giá trị tham khảo cho việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật.

Nhiều chi hội luật gia ở các bộ, ngành và các cấp hội luật gia ở địa phương đã trực tiếp tham gia và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong ban soạn thảo, tổ biên tập nhiều văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành và địa phương. Hội Luật gia nhiều địa phương đã thực sự trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của lãnh đạo trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quản lý của các cấp chính quyền; giúp xây dựng các hương ước, quy ước văn hoá và các quy định tự quản khác ở địa phương, đơn vị, cơ sở. Một số tỉnh, thành Hội đã chủ động ký kết thoả thuận với Đoàn đại biểu Quốc hội về nghiên cứu, tư vấn xây dựng chính sách và pháp luật.

 

Hội thảo góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 tại Ninh Bình

3.3.2. Công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn giải quyết khiếu nại và tham gia hòa giải ở cơ sở

Công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn giải quyết khiếu nại và hòa giải ở cơ sở được xác định là những hoạt động mà Hội có nhiều tiềm năng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Hội, phù hợp với chủ trương xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý và hòa giải ở cơ sở của Đảng và Nhà nước. Hội đã chủ động khai thác các nguồn lực và thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động tư vấn pháp luật,, trợ giúp pháp lý, tư vấn giải quyết khiếu nại và hòa giải ở cơ sở.

- Công tác tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý: Trong giai đoạn 2004 - 2015, công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn giải quyết khiếu nại và hòa giải ở cơ sở của Hội Luật gia Việt Nam tiếp tục được củng cố và có bước phát triển mới, nội dung và hình thức hoạt động ngày càng thực chất, phong phú và đa dạng, chất lượng và hiệu quả hoạt động ngày càng được nâng cao, được người dân tin tưởng và đánh giá cao.  

Hệ thống các trung tâm tư vấn pháp luật của Hội ngày càng phát triển, chất lượng, hiệu quả tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý ngày càng được nâng cao. Tính đến hết năm 2014, Hội Luật gia Việt Nam đã có 66 trung tâm tư vấn pháp luật, trong đó 12 trung tâm tư vấn pháp luật trực thuộc Trung ương hội và 54 trung tâm trực thuộc Hội Luật gia các tỉnh, thành phố.

Các trung tâm tư vấn pháp luật trực thuộc Trung ương Hội đã chủ động thực hiện các chương trình, kế hoạch hoạt động, thu hút được các nguồn lực xã hội cho công tác này. Trung tâm Tư vấn pháp luật cho người nghèo và phát triển cộng đồng đã huy động được nguồn để thực hiện trợ giúp pháp lý cho người dân nông thôn, miền núi, tổ chức các lớp tập huấn cho trưởng thôn, bản. Trung tâm tư vấn pháp luật và chính sách về Y tế, HIV/AIDS đã chủ động tạo nguồn lực để thực hiện truyền thông và trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV/AIDS.Trung tâm tư vấn pháp luật tái hòa nhập cộng đồng đã nhận được sự hỗ trợ của một số cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước để triển khai hoạt động phổ biến, tư vấn pháp luật, hỗ trợ phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù, người đã chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng.  

Ở địa phương, các trung tâm tư vấn pháp luật của Hội đã thu hút được các luật gia có trình độ, kinh nghiệm và nhiệt tình tham gia tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý, đẩy mạnh công tác tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý, đặc biệt là trợ giúp pháp lý miễn phí cho đối tượng là người nghèo, dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách và những nhóm người yếu thế trong xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau như: tư vấn trực tiếp, tư vấn qua điện thoại, trên các kênh truyền hình trung ương, địa phương và mở các chuyên mục riêng trên các báo, bản tin pháp luật của Hội...

Trong thời gian vừa qua, Hội đã tăng cường tổ chức các cuộc tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, đánh giá kết quả việc thực hiện công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý của các trung tâm thuộc các tỉnh, thành Hội và đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tư vấn viên, hội viên. Bên cạnh đó, Hội đã có thoả thuận hợp tác về tư vấn pháp luật cho một số cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế lớn.

- Công tác tư vấn giải quyết khiếu nại: Trong giai đoạn này, công tác tư vấn giải quyết khiếu nại của các cấp hội luật gia đã đạt được những kết quả rõ nét, nhất là từ sau khi có Thông báo số 270/TB-VPCP về kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại buổi làm việc với Hội Luật gia Việt Nam và Chỉ thị số 08/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam. Các cấp Hội đã chủ động lựa chọn các vụ việc có tính chất phức tạp, kéo dài, khiếu kiện đông người để đề xuất và có ý kiến tư vấn với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình xem xét, giải quyết khiếu nại. Nhiều ý kiến của Hội Luật gia đã được các cơ quan ghi nhận trong quá trình giải quyết vụ việc. Hội đã thực hiện tư vấn giải quyết khiếu nại thành công nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài, trong đó điển hình là đã tư vấn giải quyết dứt điểm vụ 4 triệu cổ phiếu của Ngân hàng Công thương Việt Nam và đang tiếp tục tư vấn giải quyết một số vụ việc ở, Phú Yên, Khánh hòa, Hà Tĩnh...

- Công tác hòa giải ở cơ sở: Là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện chủ trương tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở, các cấp Hội ở địa phương đã giới thiệu hội viên có năng lực, có tín nhiệm tham gia các tổ hòa giải. Các hội viên đã tích cực tham gia các tổ hoà giải ở thôn xóm, bản, ấp, tổ dân phố. Nhiều cấp Hội đã chú trọng gắn công tác trợ giúp pháp lý với công tác hoà giải, tham gia hòa giải hàng ngàn việc tranh chấp nhỏ về dân sự, đất đai, nhà cửa, hôn nhân gia đình; đấu tranh ngăn chặn kịp thời những hành vi liên quan đến nghiện hút, mại dâm, trộm cắp, cướp giật..., góp phần thiết thực vào việc giải quyết thành công nhiều vụ việc tranh chấp ở cơ sở.

3.3.3. Tham gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của các cấp Hội trong giai đoạn này tiếp tục được tăng cường, đổi mới về nội dung và hình thức, phù hợp với tính chất, chức năng, nhiệm vụ của Hội. Chất lượng và hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật từ Trung ương Hội đến các cấp Hội ở cơ sở ngày càng được nâng lên.

Thực hiện Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg ngày 19/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật, Trung ương Hội và các tỉnh, thành Hội đã cử đại diện của Hội tham gia Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật, đồng thời Trung ương Hội cũng đã kiện toàn Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật của Hội để chỉ đạo và phối hợp tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong hệ thống của Hội và giữa Hội với các cơ quan, tổ chức hữu quan khác. Nhiều Hội Luật gia các tỉnh, thành phố đã thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.

Ở các địa phương, các cấp Hội đã huy động được nhiều luật gia tham gia vào công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đã tổ chức nhiều hình thức phong phú như: tổ chức các cuộc tuyên truyền lưu động, tập huấn văn bản; tuyên truyền trên các phương tiện thông tấn báo chí, truyền thanh, truyền hình (bằng cả tiếng Việt và tiếng dân tộc) đưa nội dung tuyên truyền vào các chương trình văn nghệ, cổ động; biên soạn và phát hành bản tin pháp luật, tờ rơi, tờ gấp, sổ tay pháp luật, chuyên đề pháp luật về phòng chống tội phạm; xây dựng tủ sách pháp luật, tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật v.v... Các cấp Hội đã tổ chức được hàng chục nghìn buổi tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật cho người dân, phát hành hàng triệu các loại bản tin pháp luật, tờ rơi, tờ gấp v.v.

Hưởng ứng Ngày pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (11/9), các cấp Hội, các đơn vị, tổ chức trực thuộc Trung ương Hội đã tổ chức tốt việc thực hiện Ngày pháp luật với chủ đề “Xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi Luật gia”. Tại cơ quan Trung ương Hội và nhiều tổ chức hội đã tổ chức mít tinh trọng thể để quán triệt và tuyên truyền về tầm quan trọng, mục đích, ý nghĩa của Ngày pháp luật và có kế hoạch, giải pháp để đưa tinh thần pháp luật thấm sâu vào ý thức và hành động của tổ chức hội, hội viên và các tầng lớp nhân dân.

Thực hiện chủ trương xã hội hóa, Hội đã xây dựng Đề án xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngày 15/7/2013, Đề án ”Xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trợ giúp pháp lý giai đoạn 2013-2016” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (theo Quyết định số 1133/QĐ-TTg.) và giao cho Hội Luật gia Việt Nam chủ trì thực hiện. Trung ương Hội và các cấp Hội đã và đang triển khai mạnh mẽ và có hiệu quả việc kế hoạch thực hiện Đề án.

3.3.4. Tham gia công tác cải cách tư pháp, cải cách hành chính

Ngay từ đầu nhiệm kỳ thứ X, ý thức được vai trò của Hội trong việc xây dựng Chiến lược cải cách tư pháp, Trung ương Hội đã chủ động tổ chức nghiên cứu sâu về các vấn đề cải cách tư pháp và Chiến lược cải cách tư pháp, đã phối hợp với Ban Nội chính Trung ương tổ chức các cuộc hội thảo về xây dựng Chiến lược cải cách tư pháp. Việc nghiên cứu, tổ chức các hội thảo đã góp được nhiều ý kiến vào quá trình xây dựng Chiến lược cải cách tư pháp và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.

Trong giai đoạn này, Hội đã tham gia tích cực vào việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, cử đại diện tham gia Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, đóng góp nhiều ý kiến vào các Đề án quan trọng như: Đề án Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam; Đề án nghiên cứu thu gọn đầu mối cơ quan điều tra; Đề án về cơ quan quản lý thi hành án; Đề án thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên... Hội cũng đã tham gia nhiều hoạt động vào việc hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực cải cách tư pháp và đã tổ chức được nhiều cuộc hội thảo khoa học về các chủ đề liên quan đến lĩnh vực cải cách tư pháp.

Là thành viên của Hội đồng tuyển chọn các chức danh tư pháp, Trung ương Hội và Hội Luật gia các tỉnh, thành phố tiếp tục phát huy tốt vai trò, thể hiện rõ trách nhiệm, đóng góp nhiều ý kiến trong việc đánh giá, nhận xét để tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên.

Đồng thời, Hội Luật gia Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động cải cách hành chính. Hội đã cử người tham gia Hội đồng tư vấn về cải cách thủ tục hành chính, đại diện của Hội đã tích cực tham gia các hoạt động của Hội đồng và đóng góp những ý kiến thiết thực.

3.3.5. Hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý và đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng công tác hội


Hội Luật gia Việt Nam Tập huấn Luật Thi hành án Hình sự

Trong giai đoạn này, hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ công tác hội được quan tâm và đã được những kết quả quan trọng.

Trung ương Hội đã chủ trì nghiên cứu một số đề tài như: “Nghiên cứu lý luận và thực tiễn để phát huy vai trò của Hội Luật gia Việt Nam trong thực thi Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến 2020”, “Vai trò của Hội Luật gia Việt Nam trong công tác tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp luật”. Văn phòng Trung ương Hội chủ trì nghiên cứu Đề tài: “Nâng cao chất lượng tham gia xây dựng pháp luật và phản biện chính sách của Hội Luật gia Việt Nam”. Viện khoa học pháp lý và kinh doanh quốc tế và các đơn vị thuộc Trung ương hội đã chủ trì thực hiện thành công 5 đề tài nghiên cứu khoa học. Viện nghiên cứu pháp luật và kinh tế ASEAN đã tham gia đấu thầu và đã được Bộ Khoa học và Công nghệ giao thực hiện 2 đề tài nghiên cứu khoa học. Năm 2013- 2014, các Ban của Trung ương Hội triển khai thực hiện hai đề tài nghiên cứu và 1 đề án khoa học để phục vụ cho việc thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý.

Công tác nghiên cứu khoa học đã được chú trọng gắn với hoạt động thực tiễn, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học, phổ biến các kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn. Hàng năm, Trung ương Hội đã tổ chức bồi dưỡng kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ về soạn thảo văn bản, tư vấn, đại diện, bào chữa, trợ giúp pháp lý cho các trung tâm tư vấn pháp luật và các cấp Hội địa phương, tập huấn về các công ước quốc tế về quyền con người, các luật mới được ban hành để nâng cao kỹ năng và kiến thức pháp luật cho hội viên.

3.3.6.Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế

Trong giai đoạn này hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế của Hội Luật gia Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu, góp phần nâng cao vị thế của Hội không chỉ trong nước mà trong cả khu vực và giới luật gia thế giới.  

 

Đại hội lần thứ XVII Hội Luật gia Dân chủ quốc tế tổ chức tại Việt Nam

Hội tiếp tục quan hệ hợp tác chặt chẽ với Hội Luật gia dân chủ quốc tế (IADL), phát huy vai trò là thành viên IADL để vận động IADL ủng hộ các vấn đề có liên quan của Việt Nam trên trường quốc tế. Năm 2009, Hội đăng cai tổ chức thành công Đại hội XVII của IADL tại Hà Nội, để lại ấn tượng tốt đẹp với giới luật gia thế giới.Trên cơ sở đề nghị của Hội, IADL đã tiến hành nhiều hoạt động ủng hộ vụ kiện của Hội các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, yêu cầu các công ty hoá chất Mỹ bồi thường cho các nạn nhân Việt Nam bị nhiễm chất độc da cam do quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh tại Việt Nam[13]. Năm 2013, Hội đã đưa vấn đề tranh chấp Biển Đông ra các cuộc họp IADL để tranh thủ sự ủng hộ của giới luật gia quốc tế đối với Việt Nam trong vấn đề này. Ngày 11/11/2013, IADL đã ra tuyên bố kêu gọi các bên không tiến hành các hành động làm gia tăng căng thẳng tại khu vực Biển Đông; giải quyết vấn đề Biển Đông bằng biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Trong bối cảnh Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 trong vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, trên cơ sở đề nghị của Hội, IADL đã gửi thư đến Chính phủ và các cơ quan liên quan của Trung Quốc yêu cầu tôn trọng luật pháp quốc tế, không làm phức tạp tình hình và leo thang căng thẳng ở Biển Đông. Ngày 11/6/2014, IADL đã ra tuyên bố thể hiện sự quan ngại về tình hình căng thẳng leo thang ở Biển Đông, đề nghị Trung Quốc tôn trọng luật pháp quốc tế, dừng và kiềm chế các hành động gây phức tạp tình hình, làm gia tăng căng thẳng trong khu vực, đe dọa đến an ninh, an toàn hàng hải trên Biển Đông.

Trong vai trò thành viên của Hiệp hội luật các nước ASEAN (ALA), Hội đã được giao chủ trì tổ chức một số hội nghị quan trọng, trong đó có Đại hội đồng ALA lần thứ X với chủ đề “Hiến chương ASEAN - đưa ASEAN lên những tầm cao mới” vào tháng 10/2009. Tại Đại hội, Hội Luật gia Việt Nam đã được bầu giữ chức vụ Chủ tịch và Tổng thư ký của Hiệp hội trong nhiệm kỳ 2009-2012. Hội đã hoàn thành xuất sắc vai trò và trách nhiệm cao cả đó thông qua các hoạt động có đóng góp thiết thực nhằm nâng cao vai trò của ALA. Hội cũng đã triển khai nhiều hoạt động và đưa ra các sáng kiến nhằm thúc đẩy sự phát triển cũng như nâng cao vai trò của ALA trong quá trình xây dựng khối ASEAN thống nhất, tích cực thảo luận và đóng góp cho các vấn đề pháp lý liên quan đến việc thực thi Hiến chương ASEAN và việc hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015[14].

Phát huy vai trò của tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp lớn trong lĩnh vực pháp luật, Hội đã lên tiếng đấu tranh, bày tỏ quan điểm trên diễn đàn quốc tế về các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc thiểu số, tôn giáo... để bảo vệ đường lối, chính sách đúng đắn và nhất quán của Đảng và Nhà nước, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức Việt Nam trên diễn đàn pháp lý quốc tế[15]. Hội đã phối hợp với Hội nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin Việt Nam đấu tranh về phương diện pháp lý và hỗ trợ cho các nạn nhân chất độc da cam/đi-ô- xin trong vụ kiện đòi các công ty hoá chất Mỹ bồi thường. Đại diện của Hội Luật gia Việt Nam đã tham gia các diễn đàn do Hội luật gia dân chủ quốc tế tổ chức với mục đích đòi công lý cho các nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin Việt Nam[16]. Ngày 9/5/2014, trước việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD981 cũng như đưa số lượng lớn tàu hộ tống bao gồm cả tàu quân sự vào vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Hội đã ra tuyên bố cực lực phản đối hành vi của Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, vi phạm ngang nhiên chủ quyền của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng Công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982. Tiếp sau đó, ngày 25/6/2014, Hội đã ra tuyên bố về việc tàu của Trung Quốc đâm hỏng tàu kiểm ngư KN-951 của Việt Nam đang làm nhiệm vụ thi hành pháp luật trong khu vực thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Cũng trong thời kỳ này, lần đầu tiên Hội đã được cử đại diện thay mặt cho các tổ chức xã hội Việt Nam tham gia xây dựng và bảo vệ Báo cáo định kỳ phổ quát về quyền con người (UPR) lần thứ nhất trước Hội đồng nhân quyền của Liên hiệp quốc vào năm 2009 và đã có những đóng góp nhất định vào thành công của bản Báo cáo.

Trong giai đoạn này Hội cũng đã đăng cai hoặc phối hợp với các cơ quan khác tổ chức nhiều Hội nghị pháp lý quốc tế quan trọng như: Diễn đàn cấp cao Trung Quốc - ASEAN về hợp tác pháp luật và phát triển[17]; Hội thảo quốc tế về Biển Đông... [18]

Trong giai đoạn này, Hội tiếp tục thúc đẩy quan hệ hữu nghị với Hội Luật học Trung Quốc, đồng thời thiết lập quan hệ hợp tác trên cơ sở các Thoả thuận hợp tác song phương với hiệp hội nghề luật của một số quốc gia như: Đoàn Luật sư Seoul - Hàn Quốc; Hội Luật sư toàn Ấn Độ; Hội Luật gia Bê-la- rút; Hội Luật gia Liên bang Nga; Liên hiệp Luật gia U-crai-na. Thông qua các hoạt động trong khuôn khổ Thoả thuận hợp tác song phương được ký kết, hàng năm, Hội tổ chức các chuyến thăm song phương để giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, thông tin với hiệp hội nghề luật các nước bạn trong các lĩnh vực hoạt động tương đồng, tạo cơ hội để các hội viên của Hội thiết lập mối quan hệ nghề nghiệp với bạn bè đồng nghiệp quốc tế, đồng thời giới thiệu với bạn bè quốc tế về hệ thống pháp luật, tư pháp của Việt Nam cũng như quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong công cuộc cải cách pháp luật, tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam[19].

Trong điều kiện nguồn lực hoạt động của các cấp Hội còn rất hạn chế, Hội Luật gia Việt Nam đã tích cực, chủ động tìm kiếm các đối tác quốc tế để hợp tác thực hiện các dự án, hoạt động với mục tiêu nâng cao năng lực của hội viên cũng như nâng cao chất lượng, hiệu quả trong các lĩnh vực hoạt động được xác định trong Điều lệ Hội[20]. Với các dự án và hoạt động hợp tác quốc tế, lần đầu tiên Hội có điều kiện để khảo sát đánh giá toàn diện tổ chức và hoạt động của các cấp hội, trên cơ sở đó xây dựng Chiến lược phát triển dài hạn của Hội[21]. Hội cũng có điều kiện để thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động trợ giúp pháp lý cho nhiều đối tượng gặp khó khăn trong xã hội; tổ chức nhiều khoá tập huấn tập trung vào mục tiêu nâng cao kỹ năng tham gia xây dựng pháp luật, kỹ năng tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý, nâng cao kiến thức pháp luật trong đó có các văn bản pháp luật quốc tế; tổ chức các hội thảo đóng góp ý kiến cho các dự thảo luật, thực hiện các nghiên cứu khảo sát, các nghiên cứu về thực tiễn thi hành pháp luật; tổ chức các chuyến đi khảo sát, học tập kinh nghiệm nước ngoài; cử cán bộ tham gia các khoá tập huấn về pháp luật ở nước ngoài.

Đại hội đồng lần thứ X Hiệp hội Luật các nước ASEAN

3.3.7. Công tác thông tin, tuyên truyền, báo chí, xuất bản

Giai đoạn này Hội quan tâm chú trọng phát triển công tác thông tin, báo chí, xuất bản.

- Trong từng thời điểm, Đảng đoàn và Ban Thường vụ Trung ương Hội đã chỉ đạo kịp thời việc học tập, quán triệt, triển khai thực hiện và tuyên truyền các chủ trương, chính sách, quan điểm thể hiện trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trong đó có Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Chỉ thị số 56-CT/TW ngày 18/8/2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác của Hội Luật gia Việt Nam; Kết luận số 19-KL/TW ngày 23/5/2012 của Ban Bí thư về tổng kết thực hiện Chỉ thị số 56-CT/TW; Thông báo số 270/TB-VPCP ngày 26/7/2012 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại buổi làm việc với Hội Luật gia Việt Nam và Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 24 tháng 5 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam.

Hội nghị tổng kết Chỉ thị 56-CT/TW của Bộ Chính trị khóa VIII về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác của Hội Luật gia Việt Nam

Các cấp hội đã chủ động tổ chức học tập, quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở Trung ương và các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương tới đông đảo hội viên và các tầng lớp nhân dân, nghiên cứu vận dụng và đề ra các chương trình, kế hoạch hoạt động phù hợp với chức năng nhiệm vụ của Hội.

- Công tác tuyên truyền giáo dục truyền thống về Hội cũng đã được tăng cường, kịp thời phản ánh về những sự kiện quan trọng và kết quả hoạt động của Hội, phát hiện và nêu gương những đơn vị, cá nhân luật gia điển hình, tiêu biểu trong công tác hội. Hội đã phối hợp với Hội Sử học tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam Phan Anh, tổ chức viết và đăng tải các bài viết về các luật gia tiêu biểu, có nhiều công lao đóng góp cho sự nghiệp phát triển của Hội Luật gia Việt Nam như: Luật sư Phan Anh, Luật gia Phùng Văn Tửu, Luật gia Trịnh Hồng Dương...

- Các cơ quan ngôn luận của Hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, bám sát các hoạt động của Hội để tổ chức các hình thức tuyên truyền nâng cao chất lượng về nội dung. Báo Đời sống và Pháp luật tiếp tục đổi mới, tăng cường cán bộ lãnh đạo và phóng viên, cộng tác viên, đổi mới về nội dung và hình thức, nâng cao chất lượng, xây dựng thêm các chuyên mục mới, phát hành thêm những ấn phẩm mới, hấp dẫn và có số lượng đọc giả lớn. Tạp chí Pháp lý tiếp tục đổi mới về nội dung và hình thức, mở thêm các chuyên mục chuyên trang và ấn phẩm mới, nâng cao chất lượng của tạp chí, kịp thời phản ánh những vấn đề, sự kiện pháp lý, các hoạt động của Hội được dư luận xã hội quan tâm. Tạp chí Pháp luật và phát triển xuất bản tiếng Việt và tiếng Anh đi vào hoạt động ổn định, kịp thời tuyên truyền về các sự kiện pháp lý trong nước ra nước ngoài như các chuyên đề về nghiên cứu, góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp 1992, các bài viết nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông v.v... Nhà xuất bản Hồng Đức tiếp tục thực hiện tốt chức năng của mình, xuất bản và phát hành các ấn phẩm có giá trị cho xã hội và phục vụ cho công tác tuyên truyền của Hội. Nhiều Hội Luật gia các tỉnh, thành phố đã biên tập và xuất bản định kỳ các Bản tin pháp luật để cung cấp cho hội viên làm tư liệu để tuyên truyền về những hoạt động trọng tâm của Hội.

3.3.8. Công tác thi đua khen thưởng

Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị về công tác thi đua khen thưởng, về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến, trong giai đoạn 2004-2015, Hội Luật gia Việt Nam đã có những giải pháp để đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp tổ chức công tác thi đua khen thưởng, đưa công tác thi đua khen thưởng trở thành một nội dung quan trọng trong xây dựng Hội, là phương pháp để động viên và thu hút đông đảo các cấp Hội và hội viên vào việc thực hiện những nhiệm vụ của hội một cách hào hứng, sôi nổi và trách nhiệm, góp phần tạo ra động lực và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội. Công tác thi đua khen thưởng đã đi vào nề nếp và đạt được những kết quả rất cơ bản, trong đó có các kết quả chủ yếu sau:

- Năm 2010, Hội tổ chức thành công Đại hội điển hình tiên tiến Hội Luật gia Việt Nam lần thứ nhất nhằm đánh giá những kết quả đã đạt được trong các phong trào thi đua qua các năm và tôn vinh các đơn vị và cá nhân điển hình tiên tiến. Đại hội cũng đã thống nhất đề ra phương hướng và chỉ tiêu cho các phong trào thi đua yêu nước của hội giai đoạn 2010-2015. Tại Đại hội, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam đã tặng Bằng khen cho 67 tập thể và 81 cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước, góp phần xây dựng và phát triển Hội Luật gia Việt Nam giai đoạn 2005- 2010, đạt danh hiệu “Điển hình tiên tiến xuất sắc của Hội Luật gia Việt Nam”.

- Năm 2011, Hội Luật gia Việt Nam đã thành lập các cụm thi đua và năm 2012 Chủ tịch Hội đã ban hành Quy chế thi đua khen thưởng mới, tạo cơ sở để đẩy mạnh phong trào thi đua trong toàn Hội. Việc thành lập các cụm thi đua đã tạo ra được sự gắn kết và thúc đẩy phong trào thi đua chung. Hàng năm, các cụm thi đua và Hội Luật gia các cấp đã chủ động phát động phong trào thi đua đến từng đơn vị và mỗi cá nhân hội viên, tạo động lực thi đua, đoàn kết phấn đấu nâng cao hiệu quả công tác của các đơn vị và cá nhân trong từng đơn vị, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Hội. Nội dung phát động thi đua gắn liền với hoạt động thực tiễn của cụm thi đua và của từng đơn vị, với những hình thức phong phú, chỉ tiêu, kế hoạch thi đua cụ thể xuất phát từ yêu cầu thực tiễn công tác của hội và phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, đơn vị.

- Công tác đăng ký thi đua khen thưởng đã có sự chuyển biến rõ nét. Các cụm thi đua và các đơn vị đã thực hiện nề nếp hơn và triển khai các nội dung gắn với kế hoạch hoạt động cụ thể của từng đơn vị.  

- Hàng năm, Hội đồng thi đua khen thưởng Hội Luật gia Việt Nam đều tiến hành xem xét, bình chọn và trình lãnh đạo hội khen thưởng cho những tập thể và cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong hoạt động hội, đồng thời kịp thời tôn vinh, giới thiệu những gương điển hình, gương người tốt việc tốt và những tập thể, cá nhân có nhiều thành tích đóng góp cho phong trào thi đua, tạo niềm tin và trách nhiệm trong mỗi tập thể, cá nhân.

- Năm 2015, Hội Luật gia Việt Nam long trọng tổ chức kỷ niệm 60 năm thành lập Hội, đồng thời tổ chức Đại hội điển hình tiên tiến Hội Luật gia Việt Nam lần thứ hai để đánh giá những kết quả đã đạt được trong các phong trào thi đua từ 2010 đến 2015, để tôn vinh các đơn vị và cá nhân điển hình tiên tiến của các cấp Hội, để phân tích, rút ra những bài học, kinh nghiệm về tổ chức phong trào thi đua và kịp thời phổ biển, nhân rộng những kinh nghiệm quý trong các cấp hội và hội viên.

3.4. Xây dựng tổ chức Hội và phát triển hội viên

Đại hội lần thứ XI (2009) thông qua Điều lệ (sửa đổi), được Bộ Nội vụ phê duyệt theo Quyết định số 1004/QĐ-BNV ngày 31/12/2010. Theo quy định của Điều lệ Hội, Hội Luật gia Việt Nam được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở bao gồm: Hội Luật gia Việt Nam; Hội Luật gia tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Hội Luật gia cấp tỉnh); Hội Luật gia huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Hội Luật gia cấp huyện); Chi hội Luật gia cơ sở.

Quán triệt Chỉ thị 56-CT/TW của Bộ Chính trị, Kết luận số 19- KL/TW của Ban Bí thư và các Chỉ thị 06/2001/CT-TTg và 08/2013/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Đảng đoàn và Thường vụ Trung ương Hội đã chỉ đạo tiếp tục xây dựng và phát triển tổ chức để đáp ứng yêu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của toàn hội.  

Hệ thống tổ chức của Hội tiếp tục được củng cố và phát triển. Đến năm 2012, hệ thống tổ chức hội đã có ở 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đến nay, tổ chức Hội Luật gia đã được thành lập 408 huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, 52 cơ quan, ban, ngành, tổ chức ở Trung ương và một số phường, xã, thị trấn có đủ điều kiện, trong đó có 11 tỉnh, thành phố đã phát triển tổ chức Hội Luật gia đến tất cả các quận, huyện.

Để phát huy vai trò của cơ quan Trung ương hội và các đơn vị trực thuộc, trong nhiệm kỳ, Đảng đoàn và Ban Thường vụ Trung ương hội đã chỉ đạo việc kiện toàn Văn phòng Trung ương hội, các ban chuyên môn và các đơn vị trực thuộc Trung ương hội, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của mỗi đơn vị, và đã ban hành quy chế, bảo đảm cho các hoạt động được triển khai thống nhất, đồng bộ và hiệu quả.

Ở địa phương, cấp ủy và chính quyền ở nhiều tỉnh, thành phố đã có sự quan tâm đến công tác luật gia. Biên chế cho Hội Luật gia ở nhiều địa phương cũng được tăng thêm so với nhiệm kỳ trước. Trên cơ sở Điều lệ Hội Luật gia Việt Nam, tình hình thực tiễn của địa phương, đơn vị, các cấp Hội đã chú trọng củng cố và phát triển tổ chức, đổi mới phương pháp hoạt động, tập hợp và phát huy vai trò của đội ngũ luật gia tham gia vào các hoạt động của Hội một cách nhiệt tình, thiết thực và hiệu quả.

Công tác cán bộ hội được chú trọng và có nhiều tiến bộ. Đội ngũ cán bộ hội được tăng thêm về số lượng và chất lượng; công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng công tác hội được quan tâm hơn. Ở Trung ương hội và nhiều Hội Luật gia các tỉnh, thành phố đã thực hiện tốt chủ trương bố trí cán bộ kết hợp nhiều độ tuổi, bên cạnh những cán bộ cao tuổi, có uy tín và có kinh nghiệm hoạt động hội, có các cán bộ trẻ, năng động, được đào tạo cơ bản; bên cạnh một số cán bộ chuyên trách công tác hội có những cán bộ làm việc kiêm nhiệm.

Công tác phát triển hội viên tiếp tục được thực hiện tốt, chú trọng cả về số lượng và chất lượng hội viên. Hội đã tập hợp ngày càng nhiều luật gia có phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp đã và đang làm công tác pháp luật trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội, những người hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật tham gia tổ chức hội. Nhiều tổ chức hội có số lượng hội viên đông đảo, trong đó có nhiều hội viên mới được kết nạp trong nhiệm kỳ XI như Hội Luật gia các tỉnh, thành phố: Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Dương, Thanh hóa, Tiền Giang; các Chi hội Luật gia trực thuộc như: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Công ty Luật số 5 quốc gia...  

Việc cấp đổi thẻ hội viên cũng được thực hiện kịp thời, đến năm 2015 đã có trên 37.000/46.000 hội viên trong toàn quốc được cấp đổi thẻ mới. Cùng với việc tăng cường về số lượng, các cấp hội cũng quan tâm đến bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp để nâng cao chất lượng hội viên đáp ứng nhu cầu phát triển của hội.

Những thành tựu nói trên cho thấy, giai đoạn 2004 - 2015 đã ghi dấu ấn quan trọng trong lịch sử xây dựng và phát triển của Hội.

III. PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG, TIẾP TỤC PHẤN ĐẤU XÂY DỰNG HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM VỮNG MẠNH TOÀN DIỆN

Nhìn lại chặng đường 60 năm Hội Luật gia Việt Nam xây dựng và phát triển cho thấy, lịch sử của Hội Luật gia Việt Nam và của giới luật gia Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước và dân tộc Việt Nam. Trong suốt quá trình lịch sử xây dựng và phát triển, Hội Luật gia Việt Nam luôn xác định phải lấy đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của mình. Trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc đã trở thành bản chất trong hoạt động của Hội và là truyền thống tốt đẹp của Hội và của các thế hệ hội viên nói.

Với phương châm Đoàn kết, Dân chủ, Sáng tạo, Phát triển, các cấp Hội và hội viên Hội Luật gia Việt Nam đã tham gia tích cực, nhiệt tình, tâm huyết vào các hoạt động của Hội, đóng góp nhiều công sức, trí tuệ hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, xây dựng Hội Luật gia Việt Nam ngày càng vững mạnh, trở thành một tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tự hào về lịch sử 60 năm xây dựng, phát triển và truyền thống tốt đẹp của Hội, các cấp hội và hội viên Hội Luật gia Việt Nam hôm nay tiếp tục phấn đấu đểxây dựng Hội ngày càng vững mạnh; xây dựng đội ngũ Luật gia Việt Nam giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị, tư tưởng, tận tụy với nghề, vì dân, vì công lý; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Phát huy truyền thống vẻ vang 60 năm xây dựng và phát triển, các cấp Hội và toàn thể hội viên của Hội tiếp tục phấn đấu xây dựng Hội Luật gia Việt Nam vững mạnh toàn diện với những phương hướng chủ yếu mà Đại hội lần thứ XII của Hội đề ra:

- Tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện tốt các quan điểm, định hướng, nội dung của Chỉ thị số 56-CT/TW ngày 18-8-2000 của Bộ Chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác của Hội Luật gia Việt Nam; Kết luận số 19/KL-TW ngày 23/5/2012 của Ban Bí thư về tổng kết thực hiện Chỉ thị số 56-CT/TW ngày 18-8-2000 của Bộ Chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác của Hội Luật gia Việt Nam và Chỉ thị số 08/2013/CT-TTg ngày 24/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam trong tình hình mới để thống nhất về nhận thức và hành động trong tất cả các cấp hội và hội viên Hội Luật gia Việt Nam; nghiên cứu, vận dụng để xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể của mỗi cấp hội, phù hợp với tính chất, chức năng, nhiệm vụ của Hội.

- Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, năng lực và kinh nghiệm của các cấp hội và hội viên, tăng cường đề xuất các sáng kiến, đề án, dự án để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn, góp phần thiết thực vào việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật, đồng thời tham gia tích cực và có hiệu quả vào các hoạt động xây dựng pháp luật.

- Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cấp hội. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Đảng đoàn, Ban Thường vụ Trung ương hội với Đảng đoàn, Ban cán sự đảng của các bộ, ban, ngành, với cấp ủy đảng và chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để thống nhất chỉ đạo công tác Hội Luật gia và tạo điều kiện cho các cấp hội luật gia có điều kiện thuận lợi để hoạt động. Kết hợp hài hòa các hoạt động theo chiều rộng với các hoạt động theo chiều sâu. Tăng cường các hoạt động chuyên sâu, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học, phấn đấu tăng các đề tài, dự án, nhiệm vụ khoa học so với giai đoạn 2009-2014; đề cao phương pháp chuyên gia, tập hợp đông đảo đội ngũ chuyên gia pháp luật tham gia các hoạt động tư vấn chính sách, pháp luật, giám sát và phản biện xã hội.

- Phát huy vai trò của Hội Luật gia Việt Nam với tư cách là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), tham gia đầy đủ và có trách nhiệm các hoạt động do Mặt trận và VUSTA tổ chức, tăng cường mối quan hệ phối hợp trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, giám sát và phản biện xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các cuộc vận động, chương trình công tác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và VUSTA. Đồng thời mở rộng và tăng cường quan hệ với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong các hoạt động, nhất là trong việc thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý.

- Tiếp tục củng cố, phát triển tổ chức hội vững mạnh, khẳng định rõ tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của hội, bảo đảm các chế độ, chính sách phù hợp; phấn đấu để tất cả các quận, huyện, thị xã có đủ điều kiện đều có tổ chức Hội Luật gia, có đội ngũ cán bộ chuyên trách và kiêm nhiệm có đủ phẩm chất, trình độ, kinh nghiệm và nhiệt tình với công tác hội; các cấp hội có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết để tổ chức và hoạt động.

- Đẩy mạnh thực hiện chủ trương hướng về cơ sở, đổi mới và nâng cao hiệu quả tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua, phát huy vai trò và năng lực của các cấp hội và hội viên đẩy mạnh công tác trợ giúp pháp lý miễn phí cho đối tượng là người nghèo, người dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách và những nhóm người yếu thế trong xã hội.

- Tiếp tục duy trì, củng cố, phát triển và làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa Hội Luật gia Việt Nam với Hội Luật gia dân chủ quốc tế, Hiệp hội luật các nước ASEAN, Hội Luật gia các nước và các tổ chức quốc tế khác mà hội đã có mối quan hệ; chủ động mở rộng mối quan hệ với các tổ chức và cá nhân luật gia tiến bộ trên thế giới, động viên người Việt Nam là luật gia định cư ở nước ngoài tham gia các hoạt động xây dựng đất nước.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Các bài viết của các luật gia lão thành của Hội được in trong các cuốn: 30 năm trưởng thành của Hội Luật gia Việt Nam, Kỷ yếu kỷ niệm 40 năm thành lập Hội Luật gia Việt Nam, Kỷ yếu kỷ niệm 45 năm thành lập Hội Luật gia Việt Nam.

- Kỷ yếu niệm 50 năm thành lập Hội Luật gia Việt Nam;

- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI, XII;

- Báo cáo hoạt động Hội hàng năm;

- Các bài viết do cán bộ Trung ương Hội thực hiện.

 

 

[1] Đoàn đại biểu Hội luật gia quốc gia Mỹ (National Lawyers Guild) gồm 5 luật gia trong chuyến thăm Việt Nam vào năm 1978 đã ra tuyên bố lên án Chính phủ Mỹ đã vi phạm Hiệp định Pa-ri và không chịu thi hành Điều 21 của Hiệp định, không chịu bồi thường và đóng góp vào việc xây dựng Việt Nam.

[2] Tính đến tháng 5 năm 1965 đã có 22 chính phủ, 22 tổ chức quốc tế và khu vực, 119 đảng phái và đoàn thể quần chúng thuộc 92 nước lên tiếng đồng tình và ủng hộ.

 

[3] Kỷ yếu kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Hội, trang 12

[4] 30 năm trưởng thành của Hội Luật gia Việt Nam, trang 95.

 

[5] Xem: Kỷ yếu “Hội Luật gia Việt Nam 50 năm xây dựng và phát triển”, trang 106-108.

 

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, trang 131.

 

[7] Báo cáo của Ban chấp hành TW Hội khoá IX - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.

[8] Trung ương Hội phát hành 2 tạp chí: Tạp chí Pháp lý, Tạp chí pháp luật song ngữ Anh - Pháp; Báo Đời sống và Pháp luật; nhiều Tỉnh hội, Thành phát hành bản tin.

[9] Theo Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thúa X – Văn kiện Đậi hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, trang 18, 19: 

Thành hội luật gia Hà Nội, các tỉnh hội Quảng Ninh, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bà Rịa Vũng Tàu đã tổ chức nghiên cứu một số đề tài khoa học thiết thực như: “Xây dựng mô hình tư vấn pháp luật, hòa giải, giải quyết khiếu nại và tố cáo ở cơ sở”, “Văn hóa pháp lý với việc xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới ở Hà Nội”, “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ tại xã, phường, thị trấn ở thủ đô”, “Vai trò của tư vấn pháp luật về Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước ở Hà Nội”’, “ Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt”, “Phòng chống ma túy”, “Bài trừ mê tín, dị đoan ở cơ sở”, “Pháp luật với thực trạng xã hội về đất đai”, “Tổng quan kinh nghiệm, quản lý, điều hành trong nước Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á đối với thành phần kinh tế tư nhân”...

[10] Hội đã hợp tác với Hội luật gia Lào, Cam-pu-chia; Hội Luật gia Châu Á (Law Asia - LA); Hiệp hội Luật sư Châu Á (ASIA Bar Association); Hội Luật gia Henri Capitant; Hiệp hội Luật gia dân chủ Châu Âu; Hiệp hội Luật sư Thái Bình Dương; Hiệp hội Luật sư quốc tế. Hội có quan hệ chặt chẽ với nhiều tổ chức luật gia các nước như Hội Luật gia Nhật Bản, Hội Luật gia Ấn Độ, Hội Luật gia Singapore, Hội Luật gia dân chủ Pháp, Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ (ABA), Hội Luật sư Canada (CBA). 

[11] Xem thêm: bài viết “Hội Luật gia Việt Nam và cuộc đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới mới tại các Đại hội Hội luật gia dân chủ quốc tế” của GS Lưu Văn Đạt - Nguyên Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Luật gia Việt Nam, in trong cuốn 30 năm trưởng thành của Hội Luật gia Việt Nam, trang 204-207.

 

[12] Xem: Kỷ yếu “Hội Luật gia Việt Nam 50 năm xây dựng và phát triển”, trang 108-112

[13] Năm 2009, khi Hội các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam kiện các công ty hoá chất Mỹ để yêu cầu bồi thường cho các nạn nhân Việt Nam bị nhiễm chất độc da cam do quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh tại Việt Nam, IADL đã tiến hành các hoạt động ủng hộ Việt Nam trong vụ kiện này. Sau khi Tòa án tối cao Mỹ công bố quyết định từ chối đơn thỉnh cầu của Hội Nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin Việt Nam đề nghị xem xét lại phán quyết phi lý của các Tòa án cấp dưới, tháng 5 năm 2009 IADLđã tổ chức Tòa án Lương tâm Nhân dân Quốc tế tại Pa-ri để ủng hộ Việt Nam trong việc đưa ra được những lập luận buộc phía các công ty Mỹ phải có trách nhiệm trong việc giải quyết hậu quả nặng nề và kéo dài do cuộc chiến tranh hóa học ở Việt Nam. Tại Đại hội IADL lần thứ 18 được tổ chức tại Bỉ vào tháng 4 năm 2014, Hội Luật gia Việt Nam đã phối hợp với Hội Nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin Việt Nam đưa vấn đề về trách nhiệm của Chính phủ Mỹ đối với các nạn nhân Việt Nam bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam/đi-ô-xin mà quân đội Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh tại Việt Nam. IADL đã ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam về vấn đề này.

[14] Hội Luật gia Việt Nam đã tích cực trong việc xúc tiến việc thành lập tại mỗi quốc gia thành viên ALA một thiết chế để hỗ trợ pháp lý cho công dân các quốc gia ALA khác khi họ có nhu cầu. Đồng thời, Hội Luật gia Việt Nam cũng có đóng góp tích cực trong việc xây dựng trang thông tin điện tử của ALA, trong đó có phần đăng tải các văn bản pháp luật của các quốc gia ALA để giới luật gia các quốc gia này có thể tham khảo, cũng như trong việc thiết lập diễn đàn pháp lý cho giới luật gia trong khu vực trao đổi, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm. Hội cũng đã tích cực vận động để Mi-an-ma gia nhập ALA vào năm 2012.

[15] Hội đã ra các tuyên bố: Tuyên bố phản đối quyết định của Bộ Ngoại giao Mỹ về việc đưa Việt Nam vào danh sách các nước cần đặc biệt quan tâm về tôn giáo (20/9/2004); Tuyên bố yêu cầu chấm dứt ngay các hoạt động can thiệp quân sự từ bên ngoài vào Li-bi-a (18/4/2011); Tuyên bố phản đối Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) công bố mời thầu quốc tế thăm dò, khai thác tại 09 lô dầu khí trên Biển Đông nằm sâu trong thềm lục địa của Việt Nam, đồng thời phản đối việc Quốc vụ viện Trung Quốc cho thành lập cái gọi là thành phố “Tam Sa”, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (28/6/2012).

[16] Ngày 11/7/2004, Hội ra Tuyên bố ủng hộ các nạn nhân chất độc da cam/đi- ô-xin Việt Nam kiện các công ty hoá chất Mỹ trước toà án nước này; kêu gọi sự công bằng, khách quan của các vị thẩm phán Mỹ trong quá trình thụ lý và xét xử vụ kiện. Ngày 14/6/2007, Hội tổ chức lễ mít tinh ủng hộ các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam nhân dịp Toà phúc thẩm số 2 của Mỹ mở phiên tranh tụng tại Niu-oóc để xét xử vụ kiện của các nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin Việt Nam kiện các công ty hóa chất Mỹ. Tại cuộc mít tinh này Hội Luật gia Việt Nam đã ra Tuyên bố phản đối phán quyết của thẩm phán Weinstein ở Toà sơ thẩm Mỹ đã bác đơn kiện của các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam và yêu cầu Toà phúc thẩm số 2 của Mỹ vì công lý và lẽ phải, buộc các công ty hoá chất Mỹ phải bồi thường thoả đáng cho các nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin Việt Nam. Ngày 19/3/2009, Hội ra Tuyên bố phản đối việc Tòa án tối cao Mỹ bác đơn của các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam kiện các công ty hóa chất nước này đã cung cấp chất độc da cam cho quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam.

 

[17] Tổ chức tại Hạ Long năm 2007.

[18] Từ năm 2009 đến 2014 Hội đã phối hợp với Học viện Ngoại giao tổ chức 6 cuộc Hội thảo quốc tế về Biển Đông với chủ đề Biển Đông - Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực, nhằm tranh thủ ý kiến của giới luật gia và học giả các nước về vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Trong năm 2014, Hội phối hợp với Trường đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo quốc tế với chủ đề “Những khía cạnh pháp lý liên quan đến sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trong vùng biển Việt Nam” và Hội thảo quốc tế “Công ước Liên hiệp quốc về chống tra tấn và vấn đề thực hiện nghĩa vụ của quốc gia, kinh nghiệm cho Việt Nam”.

[19] Hàng năm Hội tổ chức đoàn đi thăm và làm việc, trao đổi thông tin, kinh nghiệm hoạt động với Hội Luật học Trung Quốc, Đoàn Luật sư Sê-un Hàn Quốc và đón đoàn đại biểu luật gia nước bạn sang thăm Việt Nam và làm việc với Hội. Năm 2009 Hội tổ chức chuyến thăm và làm việc tại Bê-la-rút. Năm 2011, Hội tổ chức chuyến thăm và làm việc tại Liên bang Nga. Năm 2012, Hội tổ chức chuyến thăm và làm việc tại U-crai-na. Trong khuôn khổ Thoả thuận hợp tác với Hội Luật học Trung Quốc, từ năm 2007 đến năm 2012, Hội đã cử cán bộ, hội viên tham gia các khoá tập huấn tại Trung tâm tập huấn pháp luật Trung Quốc - ASEAN đặt tại Trường đại học dân tộc Quảng Tây  Trung Quốc.

 

[20] Hội đã thiết lập quan hệ hợp tác với: Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Đại sứ quán các nước Anh, Hà Lan, Thuỵ Sỹ, Mỹ; Viện Konrad Adenauer và Quỹ Rosa Luxemburg của Cộng hoà Liên bang Đức; Hội luật sư Mỹ; Hội luật sư Ca-na-đa; Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF); Quỹ phát triển phụ nữ Liên hiệp quốc (UNIFEM); Tổ chức CARE quốc tế tại Việt Nam; Trung tâm Nhân quyền Na Uy; Cơ quan phát triển quốc tế Ốt-xtrây-lia (AusAID); Chương trình Đông Nam Á của Cơ quan phát triển quốc tế Ca-na-đa về phát triển nguồn nhân lực (SEARCH); Cơ quan phát triển quốc tế Thuỵ Điển (Sida); Ủy ban nhân quyền Ốt-x-tơ-rây-li-a; Quỹ hỗ trợ các sáng kiến tư pháp (JIFF); Quỹ châu Á; Tổ chức Action Aid Việt Nam... Một số tỉnh Hội và đơn vị trực thuộc Trung ương Hội cũng có các dự án hợp tác với các cơ quan, tổ chức quốc tế để thực hiện các hoạt phổ biến pháp luật và trợ giúp pháp lý, như các tỉnh Hội Quảng Trị, Ninh Bình, Hà Tĩnh, Bạc Liêu, Hậu Giang, Vĩnh Long, Bình Phước và Kiên Giang hợp tác với JIFF; Trung tâm Tư vấn pháp luật cho người nghèo và phát triển cộng đồng hợp tác với Tổ chức phát triển nông nghiệp Đan Mạch-Châu Á (ADDA) từ năm 2008; Trung tâm Tư vấn pháp luật và chính sách về y tế, HIV/AIDS hợp tác với Quỹ Ford, Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Quỹ hỗ trợ các sáng kiến tư pháp...

[21] Chiến lược Xây dựng và phát triển Hội Luật gia Việt Nam giai đoạn 2010- 2020 được thực hiện trong khuôn khổ dự án “Tăng cường năng lực Hội Luật gia Việt Nam do UNDP tài trợ.

 

Giá vàng
LoạiMua Bán
USD
EUR
AUD