16:04 01/10/2014 GMT+7
Báo cáo tổng kết công tác hội Luật gia Việt Nam nhiệm kỳ XI (2009-2014) và Phương hướng, nhiệm vụ công tác nhiệm kỳ XII 92014-2019)

 BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM

KHÓA XII

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

Hà Nội, ngày 20 tháng 9 năm 2014

 BÁO CÁO

TỔNG KẾT CÔNG TÁC HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM NHIỆM KỲ XI (2009-2014) VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CÔNG TÁC NHIỆM KỲ XII (2014-2019)

(Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Hội khóa XI đã được Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Luật gia Việt Nam lần thứ XII thông qua ngày 20 tháng 9 năm 2014)

 

Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Luật gia Việt Nam lần thứ XII được tổ chức trong lúc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng và triển khai đưa Hiến pháp năm 2013 vào cuộc sống. Các cấp hội và toàn thể hội viên Hội Luật gia Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 19/KL-TW ngày 23/5/2012 của Ban Bí thư về tổng kết thực hiện Chỉ thị số 56-CT/TW ngày 18-8-2000 của Bộ Chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác của Hội Luật gia Việt Nam; Chỉ thị số 08/2013/CT-TTg ngày 24/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam trong giai đoạn mới, nhằm hoàn thành tốt nhất các nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Luật gia Việt Nam lần thứ XI đã đề ra, góp phần xứng đáng vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế của đất nước.

Căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ được xác định tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Hội Luật gia Việt Nam, Báo cáo này kiểm điểm, đánh giá về những kết quả đã đạt được, chỉ ra những hạn chế, tồn tại, phân tích nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ công tác của Hội Luật gia Việt Nam trong nhiệm kỳ khóa XII (2014-2019).

Phần thứ nhất

TỔNG KẾT CÔNG TÁC HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM         

NHIỆM KỲ XI (2009-2014)

I. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NHIỆM KỲ XI (2009-2014)

1. Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật

Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Hội Luật gia Việt Nam. Trong nhiệm kỳ vừa qua, Hội đã có nhiều biện pháp để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng của công tác này như: kiện toàn Ban nghiên cứu, xây dựng và phổ biến, giáo dục pháp luật, tăng cường cán bộ, xây dựng đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên, thu hút đông đảo các luật gia, chuyên gia có trình độ cao, có uy tín và kinh nghiệm về xây dựng chính sách, pháp luật để tham gia các hoạt động do Hội tổ chức; chủ động triển khai nhiều hoạt động với nội dung và hình thức phong phú, đa dạng, chất lượng các hoạt động tham gia xây dựng chính sách, pháp luật của Hội ngày càng được nâng cao, góp phần tích cực vào việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, trong đó có những kết quả chủ yếu sau đây:

1.1. Chủ trì xây dựng thành công Luật Trọng tài thương mại. Được Quốc hội giao chủ trì xây dựng Luật Trọng tài thương mại, Trung ương Hội đã huy động được các luật gia có trình độ cao, có kinh nghiệm và nhiệt tình tham gia vào quá trình xây dựng Dự án luật. Sau gần 2 năm soạn thảo, ngày 16/7/2010, tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII Luật Trọng tài Thương mại đã được thông qua. Việc hoàn thành có chất lượng và đúng thời hạn nhiệm vụ được giao đã cho thấy Hội Luật gia Việt Nam có khả năng tổ chức, huy động lực lượng triển khai và hoàn thành tốt việc soạn thảo các dự án luật khi được Quốc hội giao.

Thực hiện Nghị quyết số 70/2014/QH13 ngày 30/5/2014 của Quốc hội điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII năm 2014 và chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015, Nghị quyết số 780/NQ-UBTVQH13 ngày 25/6/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc về việc triển khai Nghị quyết số 70/2011/QH13, Hội Luật gia Việt Nam được giao chủ trì xây dựng dự án Luật Trưng cầu ý dân. Trung ương Hội đã và đang triển khai nhiều hoạt động để xây dựng dự án luật, bảo đảm đúng quy trình, tiến độ và chất lượng để trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10,  tháng 10/2015.

1.2. Tổ chức tốt việc lấy ý kiến góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Hội Luật gia Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động sâu rộng trong các cấp hội, tập hợp được hàng nghìn ý kiến của đội ngũ luật gia trong cả nước góp ý sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992. Hội đã tổ chức 5 cuộc hội thảo khoa học chuyên sâu để lấy ý kiến Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Trung ương Hội, các luật gia, các chuyên gia, các nhà khoa học và có Báo cáo góp ý của Hội Luật gia Việt Nam gửi tới Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương và các cơ quan hữu quan theo đúng tiến độ và được đánh giá cao.

1.3. Tham gia trực tiếp vào ban soạn thảo, tổ biên tập các dự án luật, pháp lệnh và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Với vị trí và vai trò của mình, Hội Luật gia Việt Nam đã cử đại diện tham gia Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ban soạn thảo và tổ biên tập 16 dự án luật, trong đó có các dự án luật quan trọng như: Bộ luật Dân sự sửa đổi, Bộ luật Hình sự sửa đổi, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sửa đổi, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, Luật Luật sư sửa đổi, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Hòa giải ở cơ sở…Nhiều chi hội luật gia ở các bộ, ngành và các cấp hội luật gia ở địa phương đã phát huy tốt vai trò, trực tiếp tham gia và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong các ban soạn thảo, tổ biên tập của nhiều văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành và địa phương[1].   

1.4. Tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu, hội thảo, tọa đàm để tham gia góp ý cho các chương trình, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Cùng với việc kiện toàn tổ chức, xây dựng đội ngũ chuyên gia cộng tác viên, trong nhiệm kỳ vừa qua, Trung ương Hội đã tổ chức 45 cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học để tham gia góp ý kiến cho các chương trình, dự án và các dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định quan trọng. Ngoài ra, Hội Luật gia Việt Nam cũng đã tổ chức góp ý trực tiếp vào hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật khác.

Ở địa phương, các cấp Hội Luật gia đã tích cực tham gia các hoạt động theo các chương trình, kế hoạch của Trung ương Hội, Đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố đồng thời đã chủ động tổ chức góp ý kiến cho nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của trung ương và địa phương, đóng góp quan trọng trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quản lý của các cấp chính quyền. Trong nhiệm kỳ qua các cấp hội địa phương đã tham gia xây dựng 43.722 văn bản quy phạm pháp luật và hàng ngàn quy chế dân chủ cơ sở, quy ước, hương ước; tổ chức rà soát các văn bản pháp luật hiện hành để phát hiện những bất cập và kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung.

1.5. Tham gia khảo sát, tổng kết, đánh giá việc thi hành pháp luật trong thực tiễn. Trong nhiệm kỳ, Hội Luật gia Việt Nam đã tham gia có hiệu quả vào việc khảo sát, tổng kết việc thi hành pháp luật đối với một số văn bản luật như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Ban hành văn băn quy phạm pháp luật, Luật Phá sản doanh nghiệp...đã kịp thời có báo cáo tổng kết gửi Bộ Tư pháp, các cơ quan hữu quan và được đánh giá cao. Hoạt động này góp phần tạo ra một kênh thông tin khách quan có ý nghĩa phản biện và có giá trị tham khảo cho việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật.    

2. Công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn giải quyết khiếu nại và hòa giải ở cơ sở

Công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn giải quyết khiếu nại và hòa giải ở cơ sở được xác định là những hoạt động cơ bản, thường xuyên, đúng với chức năng, nhiệm vụ của Hội Luật gia Việt Nam và phù hợp với chủ trương xã hội hóa của Đảng và Nhà nước. Từ nhận thức đó, trong nhiệm kỳ vừa qua, những hoạt động này đã được các cấp hội từ trung ương đến cơ sở quan tâm đẩy mạnh, tổ chức được nhiều hoạt động thiết thực và có hiệu quả, cung cấp cho người dân và các tổ chức có trách nhiệm những ý kiến, dịch vụ pháp luật kịp thời và có chất lượng, giúp cho nhiều người dân, nhất là các đối tượng là người nghèo, người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, người thuộc đối tượng chính sách và những nhóm người yếu thế trong xã hội tiếp cận với pháp luật, nâng cao hiểu biết về pháp luật, chủ động tham gia vào các quan hệ pháp luật và có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; giúp chính quyền tháo gỡ một số khó khăn trong công tác quản lý ở cơ sở, góp phần giảm bớt khiếu kiện, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Thực tế đã cho thấy, trong nhiệm kỳ vừa qua công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn giải quyết khiếu nại và hòa giải ở cơ sở của Hội Luật gia Việt Nam tiếp tục có bước phát triển mạnh mẽ, nội dung và hình thức hoạt động ngày càng thực chất, phong phú và đa dạng, chất lượng và hiệu quả hoạt động ngày càng được nâng cao, được dư luận xã hội và người dân tin tưởng và đánh giá cao.

2.1. Công tác tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý. Cùng với việc kiện toàn Ban tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý của Trung ương hội, Ban Thường vụ đã chỉ đạo tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý của các cấp hội. Ở Trung ương hội, bên cạnh những trung tâm tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý đã được thành lập từ trước, trong nhiệm kỳ đã thành lập thêm các trung tâm mới như: Trung tâm tư vấn pháp luật tái hòa nhập cộng đồng, Trung tâm tư vấn pháp luật cho vị thành niên, Trung tâm tư vấn pháp luật Phú Quốc. Ở địa phương, nhiều tỉnh hội, thành hội tiếp tục thành lập trung tâm tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý. Đến nay, toàn hội có 66 trung tâm tư vấn pháp luật, trong đó 12 trung tâm tư vấn pháp luật trực thuộc Trung ương hội và 54 trung tâm trực thuộc Hội Luật gia các tỉnh, thành phố.

- Các trung tâm tư vấn pháp luật trực thuộc Trung ương hội đã chủ động đề ra các chương trình, kế hoạch hoạt động, thu hút được các nguồn lực xã hội cho công tác này. Trung tâm Tư vấn pháp luật cho người nghèo và phát triển cộng đồng đã thực hiện tốt Dự án trợ giúp pháp lý cho người dân nông thôn, miền núi tại 3 tỉnh Sơn La, Lai Châu, Lào Cai giai đoạn 1 do tổ chức ADDA tài trợ, đã thực hiện gần 1000 cuộc tư vấn lưu động cho trên 50.000 người; tổ chức trên 50 lớp tập huấn cho trên 2000 trưởng thôn, bản. Hiện nay, Trung tâm đang tiếp tục triển khai giai đoạn 2, để trợ giúp pháp lý cho người dân tại các tỉnh Hòa Bình, Điện Biên, Sơn La, Lai Châu.

Trung tâm tư vấn pháp luật và chính sách về Y tế, HIV/AIDS đã chủ động tạo nguồn, thực hiện 39 cuộc truyền thông và trợ giúp pháp lý lưu động cho 1957 người, trợ giúp pháp lý tại trung tâm cho 4384 đối tượng nhiễm HIV/AIDS, được dư luận xã hội đánh giá rất cao.

Trung tâm tư vấn pháp luật tái hòa nhập cộng đồng đã triển khai được nhiều hoạt động để tư vấn pháp luật, hỗ trợ phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù, người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng. Hội Luật gia Việt Nam phối hợp với Tổng cục 8 (Bộ Công an) tổ chức trợ giúp pháp lý tại các trại giam, trại tạm giam ở nhiều tỉnh (Hà Giang, Điện Biên, Hải Dương, Nghệ An, Ninh Bình, Hòa Bình, Thái Bình, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Lâm Đồng, Quảng  Nam, Bình Thuận, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Ninh Thuận,...) để trợ giúp pháp lý cho các đối tượng đang chờ xét xử hoặc các đối tượng sắp chấp hành xong án phạt tù để họ sớm tái hòa nhập cộng đồng sau khi ra khỏi trại.

- Ở địa phương, các trung tâm tư vấn pháp luật của hội đã đẩy mạnh công tác tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý, đặc biệt là trợ giúp pháp lý miễn phí cho đối tượng là người nghèo, dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách và những nhóm người yếu thế trong xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau như: tư vấn trực tiếp, tư vấn qua điện thoại, trên các kênh truyền hình trung ương, địa phương và mở các chuyên mục riêng trên các báo, bản tin pháp luật của hội...Theo báo cáo của 50 tỉnh, thành hội, các trung tâm tư vấn pháp luật đã thực hiện tư vấn pháp luật cho 370.117 vụ việc và trợ giúp pháp lý cho 274.836 vụ việc. Nhiều cấp hội đã chú trọng gắn công tác tư vấn pháp luật,  trợ giúp pháp lý với công tác hoà giải, góp phần thiết thực vào việc giải quyết thành công nhiều vụ việc tranh chấp ở cơ sở. Nhiều trung tâm tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý đã có sự chủ động thu hút được các luật gia có trình độ, kinh nghiệm và nhiệt tình tham gia tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý, được nhân dân tin tưởng, tín nhiệm, trong đó có các trung tâm tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý của Hội Luật gia các tỉnh/thành phố: Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bắc Giang, Ninh Bình, Lai Châu, Bình Thuận, Kiên Giang, Nghệ An, Hà Tĩnh, Lâm Đồng, Tiền Giang.

- Trong nhiệm kỳ vừa qua, Hội đã tăng cường tổ chức các cuộc tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, đánh giá kết quả việc thực hiện công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý của các trung tâm thuộc các tỉnh, thành hội và đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tư vấn viên, hội viên.

2.2. Công tác tư vấn giải quyết khiếu nại. Trong nhiệm kỳ, công tác tư vấn giải quyết khiếu nại của các cấp hội luật gia đã đạt được những kết quả rõ nét, nhất là từ sau khi có thông báo số 270/TB-VPCP về kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại buổi làm việc với Hội Luật gia Việt Nam và Chỉ thị số 08/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Các cấp hội đã chủ động lựa chọn các vụ việc có tính chất phức tạp, kéo dài, khiếu kiện đông người để đề xuất và có ý kiến tư vấn với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình xem xét, giải quyết khiếu nại. Nhiều ý kiến của Hội Luật gia đã được các cơ quan ghi nhận và đánh giá cao. Hội đã thực hiện tư vấn giải quyết khiếu nại thành công nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài, trong đó đã tư vấn giải quyết dứt điểm vụ 4 triệu cổ phiếu của Ngân hàng Công thương Việt Nam, hiện nay Hội đang tiếp tục tư vấn giải quyết một số vụ việc ở Nha Trang, Phú Yên, Hà Tĩnh…

2.3. Công tác hòa giải ở cơ sở. Là thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, thực hiện chủ trương tăng cường công tác hoà giải ở cơ sở, các cấp hội ở địa phương đã giới thiệu hội viên có năng lực, có tín nhiệm tham gia các tổ hoà giải. Các hội viên đã tích cực tham gia các tổ hoà giải ở thôn xóm, bản, ấp, tổ dân phố. Nhiều cấp hội đã chú trọng gắn công tác trợ giúp pháp lý với công tác hoà giải, tham gia hòa giải hàng ngàn việc tranh chấp nhỏ về dân sự, đất đai, nhà cửa, hôn nhân gia đình; đấu tranh ngăn chặn kịp thời những hành vi liên quan đến nghiện hút, mại dâm, trộm cắp, cướp giật... góp phần thiết thực vào việc giải quyết thành công nhiều vụ việc tranh chấp ở cơ sở. Trong nhiệm kỳ vừa qua, các cấp hội đã tham gia hòa giải 79.497 vụ việc, trong đó có 60.023 vụ việc hòa giải thành.

3. Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật

Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật có vị trí, vai trò rất quan trọng trong tổ chức và hoat động của Hội Luật gia Việt Nam, là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của các cấp hội và hội viên. Trong nhiệm kỳ vừa qua, công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật tiếp tục được đẩy mạnh, phạm vi các hoạt động được mở rộng, nội dung và hình thức ngày càng phong phú, đa dạng và thực chất hơn, góp phần kịp thời phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao hiểu biết về pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của các tổ chức và cá nhân trong xã hội, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Đối với Hội Luật gia Việt Nam, công tác này còn có ý nghĩa rất thiết thực nhằm kịp thời cung cấp cho các cấp hội và hội viên những tri thức pháp luật, nhất là những tri thức pháp luật mới; hình thành niềm tin, trách nhiệm và cách ứng xử phù hợp với yêu cầu của pháp luật và đạo đức nghề nghiệp trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cụ thể.

3.1. Công tác thông tin, tuyên truyền

- Trong từng thời điểm, Đảng đoàn và Ban Thường vụ Trung ương hội đã chỉ đạo kịp thời việc học tập, quán triệt, triển khai thực hiện và tuyên truyền các chủ trương, chính sách, quan điểm thể hiện trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trong đó có Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Chỉ thị số 56-CT/TW ngày 18-8-2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác của Hội Luật gia Việt Nam; Kết luận số 19-KL/TW ngày 23-5-2012 của Ban Bí thư về tổng kết thực hiện Chỉ thị số 56-CT/TW; Thông báo số 270/TB-VPCP ngày 26-7-2012 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại buổi làm việc với Hội Luật gia Việt Nam và Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 24 tháng 5 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam.

Các cấp hội đã chủ động tổ chức học tập, quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở Trung ương và các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương tới đông đảo hội viên và các tầng lớp Nhân dân, nghiên cứu vận dụng và đề ra các chương trình, kế hoạch hoạt động phù hợp với chức năng nhiệm vụ của hội.

- Trong nhiệm kỳ vừa qua, công tác tuyên truyền giáo dục truyền thống về hội cũng đã được tăng cường, kịp thời phản ánh về những sự kiện quan trọng và kết quả hoạt động của hội, phát hiện và nêu gương những đơn vị, cá nhân luật gia điển hình, tiêu biểu trong công tác hội. Hội đã phối hợp với Hội Sử học tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam Phan Anh, tổ chức viết và đăng tải các bài viết về các luật gia tiêu biểu, có nhiều công lao đóng góp cho sự nghiệp phát triển của Hội Luật gia Việt Nam như: Phan Anh, Phùng Văn Tửu, Trịnh Hồng Dương....

- Các cơ quan ngôn luận của hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, bám sát các hoạt động của hội để tổ chức các hình thức tuyên truyền nâng cao chất lượng về nội dung: Báo Đời sống và Pháp luật tiếp tục đổi mới, tăng cường cán bộ lãnh đạo và phóng viên, cộng tác viên, đổi mới về nội dung và hình thức, nâng cao chất lượng, xây dựng thêm các chuyên mục mới, phát hành thêm những ấn phẩm mới, hấp dẫn và có số lượng đọc giả lớn. Tạp chí Pháp lý tiếp tục đổi mới về nội dung và hình thức, mở thêm các chuyên mục chuyên trang và ấn phẩm mới, nâng cao chất lượng của tạp chí, kịp thời phản ánh những vấn đề, sự kiện pháp lý, các hoạt động của Hội được dư luận xã hội quan tâm; Tạp chí Pháp luật và phát triển xuất bản tiếng Việt và tiếng Anh đi vào hoạt động ổn định, kịp thời tuyên truyền về các sự kiện pháp lý trong nước ra nước ngoài như các chuyên đề về nghiên cứu, góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp 1992, các bài viết nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.v.v.. Nhà xuất bản Hồng Đức tiếp tục thực hiện tốt chức năng của mình, xuất bản và phát hành các ấn phẩm có giá trị cho xã hội và phục vụ cho công tác tuyên truyền của hội. Nhiều Hội Luật gia các tỉnh, thành phố đã biên tập và xuất bản định kỳ các Bản tin pháp luật để cung cấp cho hội viên làm tư liệu để tuyên truyền về những hoạt động trọng tâm của hội.

3.2. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của các cấp Hội Luật gia tiếp tục được tăng cường, đổi mới về nội dung và hình thức hoạt động phù hợp với tính chất, chức năng, nhiệm vụ của Hội Luật gia Việt Nam; chất lượng và hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật từ Trung ương hội đến các cấp hội ở cơ sở được nâng lên đáng kể.

- Để nắm vững các chủ trương, chính sách, quan điểm và nội dung pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật, Hội Luật gia Việt Nam đã tham gia tích cực vào việc xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và sau khi Luật được ban hành, Hội đã cử đại diện tham gia ban soạn thảo, tổ biên tập Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật do Bộ Tư pháp chủ trì, cử cán bộ tham gia Hội đồng thẩm định dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về thành phần nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật. Trên cơ sở đó, Hội đã kịp thời có các chương trình, kế hoạch để mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong hệ thống Hội Luật gia Việt Nam.

- Thực hiện Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg ngày 19/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật, Trung ương hội đã cử đại diện của hội tham gia Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật Trung ương, đồng thời đã kiện toàn Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật của Hội Luật gia Việt Nam để chỉ đạo và phối hợp tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong hệ thống của hội và giữa Hội với các cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật. Ở địa phương, Hội Luật gia các tỉnh, thành phố đều tham gia Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật của các tỉnh, thành phố. Nhiều Hội Luật gia các tỉnh, thành phố đã thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao và được đánh giá cao như Hội Luật gia các tỉnh,thành phố: Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Vĩnh Phúc, Sóc Trăng, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Nghệ An, Bình Thuận....

- Hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (11/9), Ban Thường vụ Trung ương hội đã ban hành Công văn số 415/HLGVN chỉ đạo các cấp Hội Luật gia, các đơn vị, tổ chức trực thuộc Trung ương hội tổ chức tốt việc thực hiện Ngày Pháp luật với chủ đề “Xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi Luật gia”. Tại cơ quan Trung ương hội và nhiều tổ chức hội đã tổ chức mít tinh trọng thể để quán triệt và tuyên truyền về tầm quan trọng, mục đích, ý nghĩa của Ngày Pháp luật và có kế hoạch, giải pháp để đưa tinh thần pháp luật thấm sâu vào ý thức và hành động của tổ chức hội, hội viên và các tầng lớp Nhân dân.

- Thực hiện chủ trương xã hội hóa, Hội đã xây dựng Đề án xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý và Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1133/QĐ-TTg ngày 15 tháng 7 năm 2013. Là đơn vị chủ trì triển khai thực hiện đề án, Hội Luật gia Việt Nam đã thành lập Ban chỉ đạo, Ban thư ký Đề án, đề ra kế hoạch và đang triển khai mạnh mẽ nhiều hoạt động thực hiện Đề án.

- Ở các địa phương, các cấp hội luật gia đã phát huy tốt vai trò của hội, huy động được nhiều luật gia tham gia vào công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đã tổ chức nhiều hình thức phong phú như: tổ chức các cuộc tuyên truyền lưu động, tập huấn văn bản; tuyên truyền trên các phương tiện thông tấn báo chí, truyền thanh, truyền hình (bằng cả tiếng Việt và tiếng dân tộc) đưa nội dung tuyên truyền vào các chương trình văn nghệ, cổ động; biên soạn và phát hành bản tin pháp luật, tờ rơi, tờ gấp, sổ tay pháp luật, chuyên đề pháp luật về phòng chống tội phạm; xây dựng tủ sách pháp luật, tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật.v.v... Trong nhiệm kỳ qua, các cấp Hội Luật gia đã tổ chức được 68.315 buổi tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật cho 9.123.128 người dân, phát hành 3.006.000 các loại bản tin pháp luật, tờ rơi, tờ gấp.v.v.

4. Tham gia công tác cải cách tư pháp, cải cách hành chính

- Trong nhiệm kỳ vừa qua, Hội Luật gia Việt Nam đã tham gia tích cực vào việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, cử đại diện tham gia Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương; đóng góp nhiều ý kiến vào các Đề án quan trọng như: Đề án Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam; Đề án nghiên cứu thu gọn đầu mối cơ quan điều tra; Đề án về cơ quan quản lý thi hành án; Đề án thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên; Đề án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thành trường trọng điểm về đào tạo luật… Đã tham gia nhiều hoạt động vào việc hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực cải cách tư pháp và đã tổ chức được 14 cuộc hội thảo khoa học về các chủ đề liên quan đến lĩnh vực cải cách tư pháp. 

- Là thành viên của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán và kiểm sát viên, Trung ương hội và Hội Luật gia các tỉnh, thành phố phát huy tốt vai trò, thể hiện rõ trách nhiệm, đóng góp nhiều ý kiến trong việc đánh giá, nhận xét để tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên. Trong nhiệm kỳ, Trung ương hội và các cấp hội đã tham gia tuyển chọn để bổ nhiệm mới và bổ nhiệm lại: 88 kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, 65 thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, 47 thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương, 96 thẩm phán Tòa án quân sự các cấp và hàng nghìn thẩm phán, kiểm sát viên ở địa phương.

- Đồng thời, Hội đã tích cực tham gia các hoạt động cải cách hành chính, cử người tham gia Hội đồng tư vấn về cải cách thủ tục hành chính, đại diện của Hội đã tích cực tham gia các hoạt động của Hội đồng và đóng góp những ý kiến thiết thực.

5. Công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng, nghiệp vụ công tác hội

Hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ công tác hội được quan tâm hơn. Trung ương hội thành lập mới Viện nghiên cứu pháp luật và kinh tế Asean. Trong nhiệm kỳ, Viện khoa học pháp lý và kinh doanh quốc tế, Viện nghiên cứu pháp luật và kinh tế Asean và các đơn vị thuộc Trung ương hội đã tổ chức thực hiện thành công 5 đề tài nghiên cứu khoa học và đang triển khai thực hiện 2 đề tài nghiên cứu khoa học do Bộ Khoa học và Công nghệ giao. Các ban chuyên môn và một số chi hội trực thuộc Trung ương hội cũng đã triển khai thực hiện thành công một số đề tài, dự án, trong đó có dự án (giai đoạn 1) về Xây dựng Bộ Chỉ số công lý thông qua sự cảm nhận và trải nghiệm của người dân về công bằng và bình đẳng đã được công bố và được dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao.

Công tác nghiên cứu khoa học đã được chú trọng gắn với hoạt động thực tiễn, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học, phổ biến các kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn. Hàng năm, Trung ương hội đã tổ chức bồi dưỡng kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ về soạn thảo văn bản, tư vấn, đại diện, bào chữa, và trợ giúp pháp lý cho các trung tâm tư vấn pháp luật và các cấp hội địa phương, tập huấn về công ước năm 1966 của Liên hợp quốc về quyền dân sự, chính trị, tập huấn Luật Trọng tài thương mại, Luật Thi hành án dân sự, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật An toàn thực phẩm...nâng cao kỹ năng và kiến thức pháp luật cho hội viên.

6. Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế

Hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế trong nhiệm kỳ 2009-2014 đã bám sát các nguyên tắc, định hướng được xác định trong Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương hội tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội Luật gia Việt Nam lần thứ XI, tiếp tục đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Là thành viên của Hội Luật gia dân chủ quốc tế (IADL), Hội Luật gia Việt Nam đã tham gia đầy đủ các cuộc họp thường niên của Ban Thường vụ IADL và tích cực đóng góp ý kiến về các vấn đề pháp lý mà IADL quan tâm và đưa ra thảo luận. Đặc biệt, Hội đã tranh thủ tối đa tư cách là thành viên viên IADL để vận động IADL ủng hộ các vấn đề có liên quan của Việt Nam trên trường quốc tế. Năm 2013 Hội Luật gia Việt Nam đã đưa vấn đề tranh chấp Biển Đông ra các cuộc họp IADL để tranh thủ sự ủng hộ của giới luật gia quốc tế đối với Việt Nam. Ngày 11 tháng 11 năm 2013, IADL đã ra tuyên bố kêu gọi các bên không tiến hành các hành động làm gia tăng căng thẳng tại khu vực Biển Đông; giải quyết vấn đề Biển Đông bằng biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Ngày 09/5/2014 và ngày 25/6/2014 Hội  Luật gia Việt Nam ra tuyên bố cực lực phản đối Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép trong vùng biển Việt Nam và có các hành động leo thang đâm chìm tàu cá của Việt Nam, đồng thời thông báo sự việc cho toàn thể các thành viên của IADL và đề nghị IADL ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam bảo vệ quyền chủ quyền trong thềm lục địa của mình. Ngày 11.6.2014, IADL đã công bố bản tuyên bố về vấn đề này và Chủ tịch IADL gửi thư đến Chính phủ và các cơ quan liên quan của Trung Quốc yêu cầu tôn trọng luật pháp quốc tế, không làm phức tạp tình hình và leo thang căng thẳng ở Biển Đông. Trước đó, năm 2012 Hội Luật gia Việt Nam đã ra tuyên bố phản đối Quốc vụ viện Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa; phản đối công ty dầu khí Hải Dương Trung Quốc mời thầu thăm dò dầu khí tại thềm lục địa của Việt Nam. Tại Đại hội IADL lần thứ 18 tổ chức tại Bỉ vào tháng 4 năm 2014, Hội Luật gia Việt Nam đã phối hợp với Hội Nạn nhân chất độc da cam/Dioxin Việt Nam đưa vấn đề về trách nhiệm của Chính phủ Hoa Kỳ đối với các nạn nhân Việt Nam bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam/Dioxin mà quân đội Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh tại Việt Nam. Kết quả là IADL đã đồng ý ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam về vấn đề này.

Trong vai trò thành viên của Hiệp hội luật các nước ASEAN (ALA), Hội Luật gia Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch và Tổng thư ký ALA nhiệm kỳ 2009-2012. Bằng những hoạt động thực tế, Hội Luật gia Việt Nam đã đóng góp thiết thực để nâng cao vai trò của ALA và được các nước thành viên ALA đánh giá cao. Trong khuôn khổ các cuộc họp của ALA, Hội Luật gia Việt Nam đã tích cực thảo luận và đóng góp cho các vấn đề pháp lý liên quan đến việc thực thi Hiến chương ASEAN và việc hình thành Cộng  đồng ASEAN vào năm 2015, đặc biệt là vấn đề xúc tiến việc thành lập tại mỗi quốc gia thành viên ALA một thiết chế để hỗ trợ pháp lý cho công dân các quốc gia ALA khác khi họ có nhu cầu. Hội Luật gia Việt Nam cũng có đóng góp tích cực trong việc xây dựng trang thông tin điện tử của ALA, trong đó có phần đăng tải các văn bản pháp luật của các quốc gia ALA để giới luật gia các quốc gia này có thể tham khảo, cũng như trong việc thiết lập diễn đàn pháp luật cho giới luật gia trong khu vực trao đổi, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm.

Trong nhiệm kỳ XI, Hội Luật gia Việt Nam tiếp tục thực hiện Thoả thuận hợp tác song phương với Hội Luật học Trung Quốc, Đoàn Luật sư Seoul Hàn Quốc, đồng thời đã thiết lập quan hệ hợp tác với Hội Luật gia Liên bang Nga, Liên hiệp Luật gia Ucraina và triển khai các hoạt động nhằm thúc đẩy việc thiết lập quan hệ hợp tác với Hội Luật gia các nước Lào, Campuchia.

Trong khuôn khổ Thoả thuận hợp tác song phương với Hội Luật học Trung Quốc, Đoàn Luật sư Seoul Hàn Quốc, hai bên đã tổ chức các toạ đàm, diễn đàn pháp lý giữa giới luật gia hai nước, như Toạ đàm về luật trưng cầu ý dân, Toạ đàm về Luật công ty với giới luật gia Hàn Quốc; Diễn đàn “Hợp tác và phát triển pháp luật Trung Quốc - ASEAN”, Tọa đàm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính  với Hội Luật học Trung Quốc.

Hội cũng đã phối hợp với Học viện Ngoại giao tổ chức 5 cuộc Hội thảo quốc tế về Biển Đông với chủ đề Biển Đông - Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực, nhằm tranh thủ ý kiến ủng hộ Việt Nam của giới luật gia và học giả các nước về vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.

Trong quá trình mở rộng quan hệ hợp tác với Hội Luật gia và các tổ chức nước ngoài, Hội Luật gia Việt Nam đã tranh thủ sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của nhiều tổ chức quốc tế để triển khai hiệu quả các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của hội, đặc biệt là các hoạt động phổ biến, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tham gia xây dựng pháp luật.

Các hoạt động hợp tác giữa Hội Luật gia Việt Nam với các đối tác đã góp phần nâng cao năng lực của các cấp hội để tham gia một cách có hiệu quả vào việc xây dựng pháp luật, cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý cho người dân.

7. Công tác tổ chức, cán bộ hội viên

7.1. Công tác xây dựng và phát triển tổ chức hội

Quán triệt Chỉ thị 56-CT/TW của Bộ Chính trị, Kết luận số 19-KL/TW của Ban Bí thư và các Chỉ thị 06/2001/CT-TTg và 08/2013/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Đảng đoàn và Thường vụ Trung ương hội đã chỉ đạo tiếp tục xây dựng và phát triển tổ chức để đáp ứng yêu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của toàn hội.

Hệ thống tổ chức của hội tiếp tục được củng cố và phát triển. Đến nay, hệ thống tổ chức hội đã có ở 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 408 huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, 52 cơ quan, ban, ngành, tổ chức ở  trung ương và một số phường, xã, thị trấn có đủ điều kiện, trong đó 60 hội cấp tỉnh, 166 hội cấp huyện được công nhận là hội đặc thù, 11 tỉnh/thành phố đã phát triển tổ chức Hội Luật gia đến tất cả các quận, huyện.

Để phát huy vai trò của cơ quan Trung ương hội và các đơn vị trực thuộc, trong nhiệm kỳ, Đảng đoàn và Ban Thường vụ Trung ương hội đã chỉ đạo việc kiện toàn Văn phòng Trung ương hội, các ban chuyên môn và các đơn vị trực thuộc Trung ương hội, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của mỗi đơn vị, và đã ban hành quy chế, bảo đảm cho các hoạt động được triển khai thống nhất, đồng bộ và hiệu quả. Ở địa phương, cấp ủy và chính quyền ở nhiều tỉnh, thành phố đã có sự quan tâm đến công tác luật gia. Biên chế cho Hội Luật gia ở nhiều địa phương cũng được tăng thêm so với nhiệm kỳ trước.

7.2. Công tác cán bộ hội và phát triển hội viên

Chất lượng của đội ngũ cán bộ hội và hội viên là yếu tố quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng hoạt động và sự phát triển của Hội. Trong nhiệm kỳ, công tác cán bộ hội và phát triển hội viên đã được chú trọng và có nhiều tiến bộ. Đội ngũ cán bộ hội được tăng thêm về số lượng và chất lượng; công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng công tác hội được quan tâm hơn. Ở Trung ương hội và nhiều Hội Luật gia các tỉnh, thành phố đã  thực hiện tốt chủ trương bố trí cán bộ kết hợp nhiều độ tuổi, bên cạnh những cán bộ cao tuổi, có uy tín và có kinh nghiệm hoạt động hội, có các cán bộ trẻ, năng động, được đào tạo cơ bản; bên cạnh một số cán bộ chuyên trách công tác hội có những cán bộ làm việc kiêm nhiệm.

Công tác phát triển hội viên tiếp tục đã được thực hiện tốt, chú trọng cả về số lượng và chất lượng hội viên. Hội đã tập hợp ngày càng nhiều luật gia có phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp đã và đang làm công tác pháp luật trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội, những người hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật tham gia tổ chức hội. Nhiều tổ chức hội có số lượng hội viên đông đảo, trong đó có nhiều hội viên mới được kết nạp trong nhiệm kỳ XI như Hội Luật gia các tỉnh,thành phố: Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Dương, Tiền Giang; các Chi hội Luật gia trực thuộc như: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Công ty Luật số 5 quốc gia…

Việc cấp đổi thẻ hội viên cũng được thực hiện kịp thời, đến nay đã có trên 36.285/46.000 hội viên trong toàn quốc được cấp đổi thẻ mới. Cùng với việc tăng cường về số lượng, các cấp hội cũng quan tâm đến bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp để nâng cao chất lượng hội viên đáp ứng nhu cầu phát triển của hội.

8. Công tác thi đua khen thưởng

Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị về công tác thi đua khen thưởng, về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến, trong nhiệm kỳ XI, Hội Luật gia Việt Nam đã có những giải pháp để đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp tổ chức công tác thi đua khen thưởng, đưa công tác thi đua khen thưởng trở thành một nội dung quan trọng trong xây dựng hội, là phương pháp để động viên và thu hút đông đảo các cấp hội và hội viên vào việc thực hiện những nhiệm vụ của hội một cách hào hứng, sôi nổi và trách nhiệm, góp phần tạo ra động lực và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hội.

Trong nhiệm kỳ vừa qua công tác thi đua khen thưởng đã đi vào nề nếp và đã đạt được những kết quả rất cơ bản, trong đó có các kết quả chủ yếu sau:

- Năm 2010, Hội Luật gia Việt Nam tổ chức thành công Đại hội điển hình tiên tiến Hội Luật gia Việt Nam lần thứ nhất nhằm đánh giá những kết quả đã đạt được trong các phong trào thi đua qua các năm và tôn vinh các đơn vị và cá nhân điển hình tiên tiến. Đại hội cũng đã thống nhất đề ra phương hướng và chỉ tiêu cho các phong trào thi đua yêu nước của hội giai đoạn 2010-2015. Tại Đại hội, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam đã tặng Bằng khen cho 67 tập thể và 81 cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước, góp phần xây dựng và phát triển Hội Luật gia Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010, đạt danh hiệu “Điển hình tiên tiến xuất sắc của Hội Luật gia Việt Nam”.

- Năm 2011, Hội Luật gia Việt Nam đã thành lập các cụm thi đua và năm 2012 Chủ tịch Hội đã ban hành Quy chế thi đua khen thưởng mới, tạo cơ sở để đẩy mạnh phong trào thi đua trong toàn hội. Việc thành lập các cụm thi đua đã tạo ra được sự gắn kết và thúc đẩy phong trào thi đua chung. Hàng năm các cụm thi đua và Hội Luật gia các cấp đã chủ động phát động phong trào thi đua đến từng đơn vị và mỗi cá nhân hội viên, tạo động lực thi đua, đoàn kết phấn đấu nâng cao hiệu quả công tác của các đơn vị và cá nhân trong từng đơn vị, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của hội. Nội dung phát động thi đua gắn liền với hoạt động thực tiễn của cụm thi đua và của từng đơn vị, với những hình thức phong phú, chỉ tiêu, kế hoạch thi đua cụ thể xuất phát từ yêu cầu thực tiễn công tác của hội và phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, đơn vị.

Công tác đăng ký thi đua khen thưởng đã có sự chuyển biến rõ nét. Hàng năm, số lượng Hội Luật gia các tỉnh, thành phố đăng ký thi đua khen thưởng luôn đạt tỷ từ 90% trở lên. Thông qua thực tiễn hoạt động, công tác thi đua khen thưởng tiếp tục được đẩy mạnh, các cụm thi đua và các đơn vị đã thực hiện nề nếp hơn và triển khai các nội dung gắn với kế hoạch hoạt động cụ thể của từng đơn vị. Có những cụm đã xây dựng được quy chế hoạt động, bảng chấm điểm thi đua và phối hợp hoạt động giữ các thành viên trong cụm, trao đổi kinh nghiệm, đặt ra tiêu chí, tiêu chuẩn giao ước thi đua.

Hàng năm, Hội đồng thi đua khen thưởng Hội Luật gia Việt Nam đều tiến hành xem xét, bình chọn và trình lãnh đạo hội khen thưởng cho những tập thể và cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong hoạt động hội. Trong nhiệm kỳ vừa qua, 58 tập thể đã được nhận danh hiệu “Cờ thi đua Hội Luật gia Việt Nam”, 767 tập thể, 1269 cá nhân được tặng Bằng khen của Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam; trên 500 cá nhân được tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp phát triển Hội Luật gia Việt Nam”. Đã có những đơn vị và hội viên Hội Luật gia Việt Nam nỗ lực phấn đấu vì sự nghiệp luật gia và được tặng bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và huân chương lao động của Chủ tịch nước.

Thường trực Hội đồng thi đua - khen thưởng đã theo dõi và thường xuyên nắm bắt thông tin về công tác thi đua khen thưởng của các tỉnh, thành hội, đơn vị, chi hội trực thuộc Trung ương hội kịp thời hướng dẫn các đơn vị thực hiện các quy định về thi đua khen thưởng và khen thưởng đúng người, đúng việc, đúng thành tích, tôn vinh gương điển hình, gương người tốt việc tốt và những tập thể, cá nhân có nhiều thành tích đóng góp cho phong trào thi đua, tạo niềm tin và trách nhiệm trong mỗi tập thể, cá nhân, xứng đáng với danh hiệu đã đạt được. Ý thức thi đua ngày càng đi sâu vào hoạt động của các tổ chức hội và hội viên trong toàn quốc.

9. Công tác tài chính, quản lý và sử dụng cơ sở vật chất, tài sản

9.1. Công tác tài chính

Theo quy định của Điều lệ Hội Luật gia Việt Nam, nguồn tài chính của Hội gồm có: hội phí, kinh phí do Nhà nước cấp và hỗ trợ theo quy định của pháp luật, khoản thu khác do hoạt động của hội mang lại, các khoản tặng, tài trợ của cá nhân và tổ chức trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật. Trong nhiệm kỳ, việc thu hội phí tiếp tục được triển khai và được để lại cho các tổ chức hội ở cơ sở sử dụng cho các hoạt động theo quy định của Điều lệ hội. Các cấp hội đã có nhiều cố gắng để có được nguồn kinh phí cần thiết, phục vụ cho việc mở rộng và nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hội. Đến nay đã có 60 Hội Luật gia cấp tỉnh được cấp kinh phí hàng năm (đơn vị được cấp mức cao nhất trên 1 tỷ đồng, mức thấp nhất là 40 triệu đồng). Còn lại 03 Hội Luật gia cấp tỉnh (Bình Dương, Cần Thơ; Phú yên) chưa được cấp kinh phí hoạt động.

Ngoài nguồn kinh phí Nhà nước cấp cho một số biên chế của hội, các cấp hội đã chủ động đề xuất, xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án thiết thực và hiệu quả, được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và hỗ trợ kinh phí. Bên cạnh các chương trình, dự án trong nước, Trung ương hội còn chủ động tìm nguồn, đề xuất với Chính phủ phê duyệt cho thực hiện một số dự án, hoạt động với sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của một số tổ chức nước ngoài, bổ sung thêm nguồn lực cho việc triển khai có hiệu quả các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của hội như: trợ giúp pháp lý, phổ biến, giáo dục pháp luật, tham gia xây dựng chính sách pháp luật….

Việc mở rộng các hoạt động tư vấn pháp luật của các cấp hội cũng góp phần tạo thêm nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ pháp lý cho người dân và hỗ trợ thiết thực cho công tác trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, đối tượng chính sách, người dân ở vùng sâu, vùng xa. Việc sử dụng kinh phí được thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước và của hội.

 9.2. Công tác quản lý và sử dụng cơ sở vật chất, tài sản  

Trong nhiệm kỳ XI, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng với sự nỗ lực vận động của các cấp hội, cơ sở vật chất của Trung ương hội và một số cấp hội đã được cải thiện một bước đáng kể. Đối với Trung ương hội, được sự quan tâm, tạo điều kiện của Thủ tướng Chính phủ, UBND thành phố Hà Nội và Bộ Tài chính, ngày 30 tháng 8 năm 2013, Hội Luật gia Việt Nam đã tổ chức Lễ khai trương trụ sở làm việc của Hội tại Tòa tháp Ngôi Sao, đường Dương Đình Nghệ, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Đồng thời, Trung ương hội cũng đã sắp xếp lại một số nơi làm việc cho các đơn vị trực thuộc tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho hợp lý hơn.

Ở địa phương, được sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương  và sự nỗ lực của nhiều tổ chức hội, trong nhiệm kỳ đã có 38 Hội Luật gia cấp tỉnh đã có trụ sở làm việc độc lập, một số hội được hỗ trợ phương tiện và trang thiết bị cần thiết cho hoạt động của hội; một số Hội Luật gia cấp huyện cũng đã được cấp trang thiết bị để hoạt động.

Việc quản lý và sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị của các cấp hội được thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước và Điều lệ Hội Luật gia Việt Nam.

II. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ, HẠN CHẾ, NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1. Về ưu điểm

Trong nhiệm kỳ qua, Đảng đoàn, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, toàn thể các cấp hội và hội viên đã nỗ lực phấn đấu, bám sát các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ được thể hiện trong Chỉ thị 56/CT-TW của Bộ Chính trị, Kết luận 19/KL-TW của Ban Bí thư, Chỉ thị số 08/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và phương hướng, nhiệm vụ công tác 2009 – 2014 của hội được ghi trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Luật gia Việt Nam lần thứ XI, chủ động xây dựng và thực hiện thành công các chương trình, kế hoạch công tác, trong đó có nhiều nội dung, nhiều mặt hoạt động có bước phát triển mới, chất lượng và hiệu quả hoạt động được nâng cao, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại của đất nước.   

Công tác tham gia xây dựng chính sách, pháp luật của hội tiếp tục được đẩy mạnh, nội dung, hình thức và phương pháp tham gia ngày càng phong phú, chất lượng và hiệu quả ngày càng được nâng cao, góp phần tích cực vào việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn giải quyết khiếu nại và hòa giải ở cơ sở tiếp tục được củng cố và có bước phát triển mới, nội dung, phương thức hoạt động ngày càng thiết thực, đa dạng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội và người dân, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của Nhân dân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được tăng cường và đạt được nhiều kết quả tốt, góp phần tích cực vào việc thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Các hoạt động tham gia công tác cải cách tư pháp, cải cách hành chính của các cấp hội trong nhiệm kỳ vừa qua tiếp tục được thực hiện tốt. Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế của Hội Luật gia Việt Nam tiếp tục được tăng cường, chủ động tổ chức và tham gia nhiều hoạt động ở trong nước và quốc tế, góp phần thực hiện tốt đường lối ngoại giao Nhân dân của Đảng và Nhà nước, củng cố và nâng cao uy tín của hội và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế và các nguồn lực cho các hoạt động của hội.

Công tác xây dựng, phát triển tổ chức hội có sự tiến bộ rõ nét. Cho đến nay, 100% các tỉnh thành phố và gần 60% các quận, huyện, thị xã có hội luật gia; 60/63 các Hội Luật gia cấp tỉnh và nhiều Hội Luật gia cấp huyện đã được công nhận là hội đặc thù. Đội ngũ cán bộ làm công tác hội được tăng cường, năng lực, trình độ và kỹ năng công tác của cán bộ hội được nâng lên đáng kể. Công tác phát triển hội viên tiếp tục có bước phát triển.       

2. Hạn chế, tồn tại

- Chất lượng, hiệu quả hoạt động của một số cấp hội trong một số lĩnh vực chưa cao. Một số hoạt động còn hình thức, kém hiệu quả, phương thức tổ chức hoạt động chưa được đổi mới mạnh mẽ, chưa có nhiều hình thức để tập hợp, vận động và phát huy vai trò của hội viên tham gia tích cực và có hiệu quả vào triển khai một số nhiệm vụ về giám sát thi hành pháp luật, giám sát và phản biện xã hội trong xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật; công tác tham gia giải quyết khiếu nại, công tác tham gia hòa giải ở cơ sở chưa phát huy được hiệu quả thường xuyên; còn lúng túng trong việc vận động luật gia là người Việt Nam định cư ở nước ngoài đóng góp xây dựng quê hương, đất nước…

- Công tác thông tin, báo cáo chưa được kịp thời, còn không ít cấp hội chưa có báo cáo thường xuyên. Tình trạng chậm trễ hoặc báo cáo không đầy đủ, báo cáo còn mang tính hình thức vẫn còn khá phổ biến. Việc khai thác, ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tăng cường thông tin hai chiều, mở rộng thông tin trong toàn hội vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra

- Công tác xây dựng và phát triển tổ chức hội còn chậm so với yêu cầu. Nhiều cơ quan, tổ chức ở trung ương có đội ngũ luật gia đang làm việc khá đông đảo và có đủ các điều kiện nhưng đến nay vẫn chưa thành lập Chi hội Luật gia. Ở địa phương, vẫn còn trên 40% các quận, huyện chưa có Hội Luật gia; 3 Hội Luật gia cấp tỉnh và nhiều Hội Luật gia cấp quận, huyện chưa được công nhận là hội đặc thù. Đội ngũ cán bộ của nhiều cấp hội còn thiếu, năng lực và kinh nghiệm công tác hội còn hạn chế; công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực và kỹ năng công tác hội cho cán bộ hội chưa được làm thường xuyên, chất lượng hiệu quả chưa cao.

- Công tác phát triển hội viên Hội Luật gia Việt Nam tuy đã được đẩy mạnh hơn so với trước, nhưng kết quả đạt được còn hạn chế. Ở một số nơi, việc phát triển hội chưa được chú trọng, nên số lượng hội viên mới được kết nạp trong nhiệm kỳ chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, một số nơi việc kết nạp hội viên còn thiên nhiều về số lượng, chưa chú trọng đúng mức đến chất lượng hội viên. Tính tích cực, chủ động trong việc tham gia hoạt động hội, việc tham gia sinh hoạt và đóng hội phí của một số hội viên còn chưa thường xuyên và nghiêm túc. Việc chăm lo tới lợi ích hội viên của nhiều cấp hội cũng còn hạn chế.

- Công tác thi đua, khen thưởng cũng còn nhiều hạn chế, việc đăng ký thi đua của một số cấp hội còn chậm, nội dung và phương thức tổ chức các phong trào thi đua còn chưa phong phú, thiết thực; việc tổng kết, bình xét và báo cáo kết quả thi đua của một số cấp hội còn chậm, không đầy đủ; công tác xây dựng, phát hiện và tuyên dương những gương điển hình tiên tiến của nhiều cấp hội chưa được chú trọng đúng mức.

3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại

- Nhiều cấp hội và hội viên chưa nhận thức một cách đầy đủ về tính chất, chức năng, nhiệm vụ của hội, nên việc chủ động báo cáo và  đề xuất với cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện cho công tác hội còn hạn chế; chưa đề xuất được nhiều sáng kiến, nội dung cụ thể để xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch hoạt động của hội gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện các nhiệm vụ của bộ, ngành, địa phương…

- Công tác chỉ đạo, hướng dẫn của Đảng đoàn, Ban Thường vụ Trung ương hội đối với các chương trình, kế hoạch, phong trào và các mặt công tác của hội nhiều lúc còn chậm, chưa kịp thời; sự phối hợp giữa Đảng đoàn, Ban Thường vụ với cấp ủy và chính quyền các tỉnh/thành phố để chỉ đạo công tác Hội Luật gia còn hạn chế, chưa chặt chẽ.

- Năng lực tổ chức thực hiện, kinh nghiệm và kỹ năng vận động và phát huy năng lực của đội ngũ luật gia tham gia vào thực hiện các hoạt động hội của một bộ phận cán bộ làm công tác hội còn nhiều hạn chế; một số cán bộ hội còn chưa thật nhiệt tình và trách nhiệm với công tác hội. Phương thức tổ chức hoạt động của nhiều cấp hội còn chậm được đổi mới.

- Điều kiện về tổ chức, biên chế và kinh phí để triển khai các mặt hoạt động của hội còn hạn hẹp, đến nay vẫn còn một số tỉnh, thành hội và nhiều tổ chức hội chưa được công nhận là hội đặc thù, nhiều hội chưa có đủ cán bộ, cơ sở vật chất và trang thiết bị bị tối thiểu cho việc tổ chức các công việc của hội.

- Một số chính sách, quy định của Nhà nước về tổ chức và hoạt động của các hội, tổ chức nói chung, về các tổ chức hội có tính chất chính trị, xã hội, nghề nghiệp trong đó có Hội Luật gia Việt Nam nói riêng còn chưa đầy đủ, chưa phù hợp, nên trong tổ chức và hoạt động của hội cũng gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Một số cấp ủy, chính quyền và không ít cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của Hội Luật gia theo quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 56-CT/TW của Bộ Chính trị, Kết luận số 19-KL/TW của Ban Bí thư và Chỉ thị số 08/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, nên chưa có sự quan tâm đúng mức trong việc chỉ đạo hoạt động của Hội Luật gia và chưa tạo điều kiện thuận lợi cho hội tổ hoạt động.

4. Một số bài học kinh nghiệm

Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam trong nhiệm kỳ vừa qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

Một là, để Hội Luật gia Việt Nam thực sự là một tổ chức Chính trị - xã hội - nghề nghiệp đặc thù, có điều kiện phát triển mạnh mẽ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, tổ chức và hoạt động của hội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo, tạo điều kiện thường xuyên của các cấp chính quyền. Sự phối hợp chặt chẽ giữa Đảng đoàn, Ban Thường vụ Trung ương Hội Luật gia Việt Nam với cấp ủy và chính quyền các cấp là yếu tố quan trọng để chỉ đạo kịp thời và nâng cao chất lượng các mặt hoạt động của các cấp hội luật gia. Các cấp hội luật gia phải thường xuyên báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy đảng và chính quyền quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho công  tác của hội.

Hai là, chú trọng nâng cao nhận thức về tính chất, chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm xã hội của Hội Luật gia Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng các chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể, thiết thực và có phương thức tổ chức và hoạt động phù hợp với tính chất, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của hội, tránh xu hướng hình thức và hành chính hóa. Các chương trình, kế hoạch công tác của hội phải gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương, đơn vị. Phải coi trọng việc đổi mới hình thức và phương pháp hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của hội với phương châm chủ động, sáng tạo, dân chủ, phát triển; trau dồi đạo đức nghề nghiệp của luật gia với các tiêu chí: Giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị tư tưởng, tận tụy với nghề, vì dân, vì công lý.

Ba là, thường xuyên củng cố và nâng cao năng lực tổ chức và hoạt động của các cấp hội, chú trọng kiện toàn và phát huy vai trò của tổ chức bộ máy và cán bộ hội, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đoàn, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, các ban chuyên môn của cơ quan Trung ương hội. Trung ương hội phải tập hợp được trí tuệ và lực lượng đông đảo của các chuyên gia pháp luật có uy tín để tham gia có hiệu quả vào quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Các cấp hội ở các tỉnh, thành phố, quận, huyện phải bảo đảm nguyên tắc thống nhất về tổ chức và hoạt động của hội, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo để tìm ra các hình thức hoạt động phong phú, sinh động và hiệu quả, mang đến cho công tác hội sự đa dạng và đặc điểm riêng của mình.

Bốn là, việc lựa chọn, bố trí cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt của hội, bên cạnh yêu cầu về trình độ, năng lực chuyên môn, cần chú trọng lựa chọn những người có tâm huyết, nhiệt tình và có trách nhiệm với hội, có uy tín, kinh nghiệm và năng lực công tác hội, có điều kiện về thời gian và có khả năng kết nối những mối quan hệ cần thiết với các tổ chức và cá nhân có liên quan. Đồng thời, cũng cần chú trọng kết hợp nhiều độ tuổi trong đội ngũ cán bộ của hội, để có sự tương hỗ giữa các thế hệ, bảo đảm hài hòa về tính sâu sắc, tinh tế, linh hoạt và liên tục trong công tác hội.

Năm là, tăng cường và mở rộng sự hợp tác với các tổ chức ở trong nước và quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ và tạo thêm các nguồn lực xã hội để hỗ trợ cho các hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam.

Phần thứ hai

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM

NHIỆM KỲ XII (2014-2019) 

I. BỐI CẢNH CHUNG

 Trong nhiệm kỳ tới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta sẽ tiếp tục nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, đồng thời thi đua lập thành tích để hướng tới và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII. Trong thời gian này, việc triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 cũng sẽ đặt ra nhiều nhiệm vụ lớn và phức tạp, đòi hỏi phải được tổ chức và thực hiện một cách khẩn trương, nghiêm túc và hiệu quả. Theo đó, các quá trình cụ thể hóa các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp 2013, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện pháp luật; sử dụng pháp luật để giải quyết những tranh chấp phát phát sinh ở trong nước và quốc tế; bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, doanh nghiệp, bảo vệ chủ quyền quốc gia…sẽ diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, với quy mô và mức độ ngày càng lớn, khó và phức tạp hơn.

Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến khó lường, nhất là trên Biển Đông, các vi phạm về chủ quyền, vi phạm luật pháp quốc tế xẩy ra ngày càng phức tạp, các cuộc đấu tranh để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của các quốc gia ven biển, trong đó có Việt Nam, bảo vệ an ninh hàng hải, hàng không tiếp tục diễn ra, cần có những cơ chế pháp lý phù hợp để giải quyết, trong đó có cơ chế tài phán quốc tế. Tuy nhiên, hòa bình, hợp tác và phát triển, dân chủ hóa các quan hệ quốc tế vẫn tiếp tục là xu thế lớn. Trong khu vực, các nước ASEAN đang chuẩn bị các điều kiện, tiến hành nhiều hoạt động, trong đó có sự chuẩn bị xây dựng các cơ chế pháp lý cho việc hình thành cộng đồng ASEAN vào năm 2015.

Đối với Hội Luật gia Việt Nam, trong nhiệm kỳ Khóa XII, bên cạnh những thuận lợi cơ bản như có sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, cấp ủy đảng và chính quyền địa phương; tổ chức hội phát triển ngày càng lớn mạnh, đội ngũ cán bộ hội và hội viên được tăng cường về số lượng và chất lượng; quan hệ hợp tác quốc tế được mở rộng…thì cũng còn rất nhiều khó khăn, trong đó có khó khăn về biên chế, tài chính và điều kiện làm việc của các cấp hội. Trong nhiệm kỳ Khóa XII, trên cơ sở Kết luận số 19-KL/TW của Ban Bí thư, Chỉ thị số 08/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các mặt hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam phải được đẩy mạnh, đồng thời toàn hội sẽ tập trung để hoàn thành một số nhiệm vụ mới, quan trọng: Triển khai Đề án “Xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý giai đoạn 2013-2016”; xây dựng “Luật Trưng cầu ý dân” và tham gia sâu rộng vào  việc giám sát và phản biện chính sách, pháp luật....

Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu Hội Luật gia Việt Nam lần thứ XII xác định mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu trong nhiệm kỳ 2014 – 2019 như sau:

II. MỤC TIÊU

Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động, hướng về cơ sở, xây dựng và phát triển tổ chức Hội Luật gia Việt Nam ngày càng vững mạnh, xây dựng đội ngũ luật gia Việt Nam giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị tư tưởng, tận tụy với nghề, vì dân, vì công lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam trong giai đoạn mới, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.  

III. PHƯƠNG HƯỚNG

1. Tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện tốt các quan điểm, định hướng, nội dung của Chỉ thị số 56-CT/TW ngày 18-8-2000 của Bộ Chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác của Hội Luật gia Việt Nam; Kết luận số 19/KL-TW ngày 23/5/2012 của Ban Bí thư về tổng kết thực hiện Chỉ thị số 56-CT/TW ngày 18-8-2000 của Bộ Chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác của Hội Luật gia Việt Nam và Chỉ thị số 08/2013/CT-TTg ngày 24/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam trong tình hình mới để thống nhất về nhận thức và hành động trong tất cả các cấp hội và hội viên Hội Luật gia Việt Nam; nghiên cứu, vận dụng để xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể của mỗi cấp hội, phù hợp với tính chất, chức năng, nhiệm vụ của Hội.

2. Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, năng lực và kinh nghiệm của các cấp hội và hội viên, tăng cường đề xuất các sáng kiến, đề án, dự án để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn, góp phần thiết thực vào việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật, đồng thời tham gia tích cực và có hiệu quả vào các hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật khác.

3. Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cấp hội. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Đảng đoàn, Ban Thường vụ Trung ương hội với Đảng đoàn, Ban cán sự đảng của các bộ, ban, ngành, với cấp ủy đảng và chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để thống nhất chỉ đạo công tác Hội Luật gia và tạo điều kiện cho các cấp hội luật gia có điều kiện thuận lợi để hoạt động. Kết hợp hài hòa các hoạt động theo chiều rộng với các hoạt động theo chiều sâu. Tăng cường các hoạt động chuyên sâu, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học, phấn đấu tăng các đề tài, dự án, nhiệm vụ khoa học so với nhiệm kỳ XI; đề cao phương pháp chuyên gia, tập hợp đông đảo đội ngũ chuyên gia pháp luật tham gia các hoạt động tư vấn chính sách, pháp luật, giám sát và phản biện xã hội.

4. Phát huy vai trò của Hội Luật gia Việt Nam với tư cách là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), tham gia đầy đủ và có trách nhiệm các hoạt động do Mặt trận và VUSTA tổ chức, tăng cường mối quan hệ phối hợp trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, giám sát và phản biện xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các cuộc vận động, chương trình công tác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và VUSTA. Đồng thời mở rộng và tăng cường quan hệ với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong các hoạt động, nhất là trong việc thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý.

5. Tiếp tục củng cố, phát triển tổ chức hội vững mạnh, khẳng định rõ tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của hội, bảo đảm các chế độ, chính sách phù hợp; phấn đấu đến năm 2015, tất cả các quận, huyện, thị xã có đủ điều kiện đều có tổ chức Hội Luật gia; đến năm 2016, các tổ chức hội đều được công nhận là hội đặc thù, có đội ngũ cán bộ chuyên trách và kiêm nhiệm có đủ phẩm chất, trình độ, kinh nghiệm và nhiệt tình với công tác hội; các cấp hội có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết  để tổ chức và hoạt động.

6. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương hướng về cơ sở, đổi mới và nâng cao hiệu quả tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua, phát huy vai trò và năng lực của các cấp hội và hội viên đẩy mạnh công tác trợ giúp pháp lý miễn phí cho đối tượng là người nghèo, dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách và những nhóm người yếu thế trong xã hội.

7. Tiếp tục duy trì, củng cố, phát triển và làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa Hội Luật gia Việt Nam với Hội Luật gia dân chủ quốc tế, Hiệp hội luật các nước ASEAN, Hội Luật gia các nước và các tổ chức quốc tế khác mà hội đã có mối quan hệ; chủ động mở rộng mối quan hệ với các tổ chức và cá nhân luật gia tiến bộ trên thế giới, động viên người Việt Nam là luật gia định cư ở nước ngoài tham gia các hoạt động xây dựng đất nước.

8. Tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Hội Luật gia Việt Nam (04/4/1955 – 04/4/2015).

IV. MỘT SỐ CHỈ TIÊU PHẤN ĐẤU

1. Về tổ chức: 100% các quận huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có tổ chức Hội Luật gia.

2. Về hội viên: Có 50.000 hội viên trở lên, bảo đảm chất lượng, đáp ứng các tiêu chí: Giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị tư tưởng, tận tụy với nghề, vì dân, vì công lý.

3. Về tham gia xây dựng chính sách pháp luật: Hoàn thành đúng quy trình, tiến độ với chất lượng cao việc soạn thảo Luật trưng cầu ý dân; hoàn thành 100% các nhiệm vụ được giao trong tham gia xây dựng chính sách, pháp luật; tăng cường các hoạt động tư vấn chính sách, giám sát và phản biện xã hội được giao.

4. Về tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý: 100% các tỉnh, thành hội có trung tâm tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý; tăng 50% trở lên các vụ việc trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách.

5. Về phổ biến, giáo dục pháp luật: Hoàn thành 100% các mục tiêu, nhiệm vụ của Đề án xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý; huy động được ít nhất 50% nguồn lực xã hội để thực hiện xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của hội.

6. Về nghiên cứu khoa học: Tăng ít nhất 50% các đề tài, dự án nhiệm vụ khoa học các cấp.

7. Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hội và hội viên: 70% cán bộ hội được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng công tác Hội; 30% hội viên được tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn do các cấp hội tổ chức.

8. Về thi đua: 100% các các tỉnh, thành hội, các chi hội trực thuộc Trung ương có đăng ký thi đua; 90% trở lên cán bộ hội chuyên trách đạt danh hiệu lao động tiên tiến, 20% trở lên đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở.

V. NHỮNG NHIỆM VỤ CHỦ YẾU

1. Tham gia xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật

- Tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp hội và hội viên về vị trí, vai trò và trách nhiệm của Hội Luật gia Việt Nam trong việc tham gia xây dựng, hoàn thiện chính sách và pháp luật trong giai đoạn hiện nay, chủ động, tích cực đề xuất với Đảng và Nhà nước các sáng kiến, kế hoạch và tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ được phân công; gắn công tác tham gia xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật với các hoạt động nghiên cứu khoa học, giám sát và phản biện xã hội, tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý do các cấp hội thực hiện.

- Tích cực, chủ động nghiên cứu, tham gia kiến nghị và góp ý kiến xây dựng các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hoạt động tư pháp, về đối nội, đối ngoại, về phát triển kinh tế - xã hội trong cả nước hoặc tại các vùng, miền, địa phương dưới hình thức góp ý chính thức theo yêu cầu của các cơ quan Đảng, Nhà nước hoặc tự nghiên cứu, phát hiện và đề xuất kiến nghị với các cơ quan Đảng và Nhà nước.

- Hoàn thành việc việc soạn thảo Luật Trưng cầu ý dân trình Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10, bảo đảm chất lượng và đúng tiến độ quy định; chủ động đề xuất với Quốc hội, Chính phủ kế hoạch triển khai, đưa Luật vào cuộc sống, góp phần thiết thực triển khai thực hiện Hiến pháp 2013.

- Tham gia tích cực và có trách nhiệm cao vào các ban soạn thảo, tổ biên tập các dự án luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật được phân công.

- Tiếp tục đẩy mạnh việc tổ chức góp ý kiến đối với các dự án luật, pháp lệnh, nghị định, các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương trong quá trình triển khai thực hiện Hiến pháp theo Nghị quyết của Quốc hội. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc tổ chức góp ý vào các dự án văn bản quy phạm pháp luật.

2. Công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn giải quyết khiếu nại và hòa giải ở cơ sở

- Quán triệt sâu rộng đến các cấp hội và hội viên về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và ý nghĩa xã hội của Đề án xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý giai đoạn 2013-2016, phát huy vai trò của các cấp hội, tổ chức thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch được đề ra trong từng giai đoạn cụ thể của Đề án.

- Tiếp tục phát triển hệ thống các trung tâm tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, phấn đấu đến hết năm 2016, tất cả các tỉnh, thành hội trong cả nước đều có trung tâm tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý.

- Đổi mới mạnh mẽ phương thức tổ chức và hoạt động nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các trung tâm tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, phù hợp với chủ trương xã hội hóa, đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn hiện nay.

- Xây dựng và nhân rộng mô hình trung tâm pháp luật cộng đồng theo định hướng mục tiêu được đề ra trong Đề án xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý.

- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tham gia giải quyết khiếu nại, hòa giải ở cơ sở.

- Tiếp tục thực hiện tốt các dự án trợ giúp pháp lý được các tổ chức trong nước và quốc tế tài trợ, đồng thời chú trọng tìm kiếm các nguồn lực mới cho các hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý của hội.

- Đẩy mạnh các hoạt động tập huấn, phổ biến kinh nghiệm, kỹ năng tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ hội làm công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý. 

3. Công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cho hội viên và Nhân dân, đồng thời chú trọng tuyên truyền, quảng bá về hội.

- Tổ chức tốt công tác thông tin trong hệ thống hội để tăng cường thông tin, bảo đảm mối quan hệ hai chiều được nhanh chóng và thông suốt.

- Tiếp tục kiện toàn về tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan ngôn luận của hội.

- Trung ương hội và các cấp hội chủ động, tích cực tham gia và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được phân công trong Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật ở trung ương và địa phương. Đồng thời phát huy vai trò của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật của Hội Luật gia Việt Nam, chủ động xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật trong hệ thống hội và đến các tầng lớp nhân dân.

- Tham gia tích cực vào quá trình triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013, chủ động có các hoạt động thiết thực và có hiệu quả, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của hội.

- Tiếp tục tổ chức tốt Ngày Pháp luật với nội dung thiết thực và gắn với chức năng nhiệm vụ của hội, thu hút sự chú ý và hưởng ứng của xã hội, nâng cao vị thế của pháp luật.

- Thực hiện nội dung phổ biến giáo dục pháp luật của Đề án xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý giai đoạn 2013-2016 theo đúng tiến độ kế hoạch, tạo hiệu quả thực tế của Đề án.

4. Tham gia cải cách tư pháp, cải cách hành chính, tham gia tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên

- Tiếp tục tham gia đầy đủ và có hiệu quả vào các hoạt động cải cách tư pháp, hoàn thành tốt vai trò là thành viên của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương và Ban thư ký. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học, tham gia xây dựng thể chế, tăng cường các hoạt động tư vấn chính sách và tham gia giám sát, phản biện xã hội đối với những vấn đề án liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp.

- Tham gia tích cực và có trách nhiệm vào hoạt động tuyển chọn các chức danh tư pháp, hoàn thành tốt vai trò các thành viên của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên, phân công cán bộ có đủ năng lực, trình độ, uy tín và kinh nghiệm tham gia vào việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị ý kiến, đại diện cho Hội Luật gia phát biểu đối với từng trường hợp cụ thể.

- Đẩy mạnh các hoạt động thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động tư pháp của Đảng và Nhà nước. Tiếp tục triển khai xây dựng Bộ chỉ số công lý thông qua sự cảm nhận và trải nghiệm của người dân về công bằng và bình đẳng giai đoạn hai.

- Tham gia tích cực vào quá trình cải cách hành chính, lựa chọn và cử người có đủ phẩm chất, năng lực tham gia Hội đồng tư vấn về cải cách thủ tục hành chính; triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học, khảo sát thực tiễn, phân tích, đánh giá chất lượng của các dịch vụ hành chính công, chất lượng và hiệu quả cải cách hành chính của các cơ quan nhà nước.

5. Công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, có giải pháp để thu hút và phát huy năng lực của đội ngũ luật gia có trình độ cao, có uy tín và kinh nghiệm tham gia vào công tác nghiên cứu khoa học của hội. Xây dựng đội ngũ cộng tác viên khoa học của Hội Luật gia Việt Nam vững mạnh, đủ sức tham gia thực hiện các đề tài, dự án, nhiệm vụ khoa học phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Hội và xu hướng xã hội hóa.

- Củng cố Viện khoa học pháp lý và kinh doanh quốc tế và Viện pháp luật và kinh tế ASEAN để hai viện nghiên cứu có đủ năng lực tổ chức thực hiện tốt các đề tài, dự án, nhiệm cụ khoa học được giao và tham gia đấu thầu các đề tài, dự án, nhiệm vụ khoa học cụ thể hàng năm. Tiếp tục xây dựng các hướng nghiên cứu mới, góp phần vào việc phát triển và ứng dụng khoa học pháp lý vào việc giải quyết những yêu cầu đang đặt ra trong thực tiễn pháp lý trong nước và quốc tế.

- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác hội, chăm lo bồi dưỡng nâng cao năng lực của các cấp hội và hội viên. Củng cố và kiện toàn Trường đào tạo và bồi dưỡng chuyên gia pháp lý, xây dựng và thực hiện các chương trình kế hoạch đào tạo đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, hội viên của hội và các đối tượng khác trong xã hội.

- Đẩy mạnh việc tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, biên soạn và cung cấp tài liệu về các hoạt động nghiệp vụ của luật gia, nhất là các luật gia ở địa phương, cơ sở; cung cấp kỹ năng tham gia xây dựng pháp luật, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở….để nâng cao năng lực cho hội viên.

6. Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế

- Tiếp tục duy trì và phát huy tốt hơn vai trò của Hội Luật gia Việt Nam là thành viên các tổ chức IADL và ALA, tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức đó đối với hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam và Nhân dân Việt Nam đồng thời thực hiện tốt trách nhiệm và có những đóng góp thiết thực của luật gia Việt Nam trong hoạt động chung của IADL và ALA.

- Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với luật gia các nước và các tổ chức quốc tế để tranh thủ sự giúp đỡ về tài chính, nghiệp vụ phát triển sự nghiệp luật gia; thu hút các luật gia là người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia xây dựng đất nước.

- Triển khai hiệu quả các dự án, hoạt động đang hợp tác với các cơ quan, tổ chức quốc tế để tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của hội trong các lĩnh vực công tác: phổ biến, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tham gia xây dựng pháp luật…

7. Công tác tổ chức, cán bộ hội và hội viên

- Tiếp tục phát triển hệ thống tổ chức hội, đến năm 2015 các quận, huyện có đủ điều kiện đều có hội luật gia; coi trọng chất lượng phát triển hội viên, phát huy vai trò của Trường đào tạo và bồi dưỡng chuyên gia pháp lý, thành lập trung tâm trọng tài thương mại; phát huy nguồn nội lực để phát triển hội.

- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế  hoạch về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ và hội viên.

- Lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo các cấp hội, các đơn vị trực thuộc Trung ương hội là những người có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, uy tín, trách nhiệm và nhiệt tình với công tác hội.

- Chú trọng công tác phát triển hội viên mới, đảm bảo tiêu chuẩn và chất lượng, xây dựng cơ sở dữ liệu hội viên. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của hội viên, duy trì tốt chế độ sinh hoạt và đóng hội phí.

- Căn cứ ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư trung ương Đảng và Kết luận của Thủ tướng Chính phủ, hội luật gia cấp tỉnh tiếp tục đề nghị cấp ủy và chính quyền địa phương công nhận các  hội đặc thù cấp huyện có đủ điều kiện để tạo thuận lợi cho hoạt động.

8. Công tác thi đua khen thưởng

- Đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng nhiệm kỳ tới. Nâng cao trách nhiệm của các cấp hội trong chỉ đạo tổ chức các phong trào thi đua, bảo đảm thiết thực, hiệu quả; gắn công tác thi đua khen thưởng với việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", làm cho phong trào thi đua trở thành phong trào hành động sâu rộng trong các cấp hội từ Trung ương xuống cơ sở.

- Ðổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức các phong trào thi đua yêu nước theo hướng: hướng về cơ sở, bám sát nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để tổ chức phát động với các hình thức thi đua phong phú, hấp dẫn, có chủ đề, tên gọi dễ nhớ, có tiêu chí cụ thể, nội dung thiết thực, triển khai có hiệu quả, chống hình thức. Thực hiện nghiêm túc việc đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, lựa chọn các tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu để biểu dương, tôn vinh, khen thưởng kịp thời. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới phương pháp tổ chức chỉ đạo các phong trào thi đua, bảo đảm thực hiện đồng bộ ở cả bốn khâu: phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến. Quan tâm tạo điều kiện để các điển hình tiên tiến được tuyên truyền nêu gương, tạo sự lan tỏa trong cơ quan, đơn vị, bộ, ngành, địa phương.

- Tổ chức tốt các phong trào thi đua hàng năm; xây dựng kế hoạch  chuẩn bị tổ chức Đại hội điển hình tiên tiến Hội Luật gia Việt Nam lần thứ 2. Trước mắt phát động phong trào thi đua sôi nổi hướng tới kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Luật gia Việt Nam (4/4/1955-4/4/2015).

- Phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của các cấp hội, các cụm thi đua và toàn thể hội viên, tổ chức tốt các phong trào thi đua do Trung ương hội phát động và phong trào thi đua của mỗi cấp hội bằng những nội dung, hình thức cụ thể, phong phú, thích hợp trong từng thời gian và điều kiện thực tế của các đơn vị.

*****

Phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam trong giai đoạn mới, các tổ chức hội và toàn thể hội viên Hội Luật gia Việt Nam ra sức phấn đấu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tu dưỡng, rèn luyện giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững vàng về chính trị tư tưởng, tận tụy với nghề, vì dân, vì công lý, cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu của chúng ta.

                                 BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

                                             HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM KHÓA XI

 



[1] Điển hình như: Chi hội Luật gia của các cơ quanVăn phòng Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Ngoại giao, Hội Luật gia thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hải Dương, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tiền Giang...

Giá vàng
LoạiMua Bán
USD
EUR
AUD